Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 10.119

Tăng Chi Bộ 10.119
Aṅguttara Nikāya 10.119

12. Phẩm Đi Xuống
12. Paccorohaṇivagga

Sự Xuất Ly của Bậc Thánh (1)
Paṭhamapaccorohaṇīsutta

1. Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Jānussoṇi, nhân ngày trai giới Uposatha, sau khi gội đầu và mặc đôi áo lụa mới, tay cầm nắm cỏ kusa ướt, đứng không xa Thế Tôn bao nhiêu.
Tena kho pana samayena jāṇussoṇi brāhmaṇo tadahuposathe sīsaṃnhāto navaṃ khomayugaṃ nivattho allakusamuṭṭhiṃ ādāya bhagavato avidūre ekamantaṃ ṭhito hoti.

Thế Tôn thấy Bà-la-môn Jānussoṇi, nhân ngày trai giới Uposatha, sau khi gội đầu và mặc đôi áo lụa mới, tay cầm nắm cỏ kusa ướt, đứng một bên không xa bao nhiêu.
Addasā kho bhagavā jāṇussoṇiṃ brāhmaṇaṃ tadahuposathe sīsaṃnhātaṃ navaṃ khomayugaṃ nivatthaṃ allakusamuṭṭhiṃ ādāya ekamantaṃ ṭhitaṃ.

Thấy vậy liền nói với Bà-la-môn Jānussoṇi:
Disvāna jāṇussoṇiṃ brāhmaṇaṃ etadavoca:

“Này Bà-la-môn, nhân ngày trai giới Uposatha, Ông gội đầu, mặc đôi áo lụa mới, tay cầm nắm cỏ kusa ướt, đứng một bên để làm gì?
“kiṃ nu tvaṃ, brāhmaṇa, tadahuposathe sīsaṃnhāto navaṃ khomayugaṃ nivattho allakusamuṭṭhiṃ ādāya ekamantaṃ ṭhito?

Có phải hôm nay là ngày của gia đình Bà-la-môn?”
Kiṃ nvajja brāhmaṇakulassā”ti?

“Thưa Tôn giả Gotama, hôm nay là ngày xuất ly của gia đình Bà-la-môn.”
“Paccorohaṇī, bho gotama, ajja brāhmaṇakulassā”ti.

“Này Bà-la-môn, như thế nào là ngày xuất ly của các Bà-la-môn?”
“Yathā kathaṃ pana, brāhmaṇa, brāhmaṇānaṃ paccorohaṇī hotī”ti?

“Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn nhân ngày trai giới Uposatha gội đầu, mặc đôi áo lụa mới, thoa sàn nhà với phân bò ướt, trải với cỏ kusa xanh, và nằm xuống giữa đống cát và nhà lửa.
“Idha, bho gotama, brāhmaṇā tadahuposathe sīsaṃnhātā navaṃ khomayugaṃ nivatthā allena gomayena pathaviṃ opuñjitvā haritehi kusehi pattharitvā antarā ca velaṃ antarā ca agyāgāraṃ seyyaṃ kappenti.

Ðêm ấy họ dậy ba lần, chắp tay đảnh lễ ngọn lửa và nói: “Chúng tôi đi xuống đến Tôn giả”.
Te taṃ rattiṃ tikkhattuṃ paccuṭṭhāya pañjalikā aggiṃ namassanti: ‘paccorohāma bhavantaṃ, paccorohāma bhavantan’ti.

Rồi họ đốt lửa với nhiều thục tô, và sanh tô.
Bahukena ca sappitelanavanītena aggiṃ santappenti.

Và sau khi đêm ấy đã qua, họ cúng dường các Bà-la-môn với các món ăn thù diệu, loại cứng và loại mềm.
Tassā ca rattiyā accayena paṇītena khādanīyena bhojanīyena brāhmaṇe santappenti.

Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, là lễ xuất ly của các Bà-la-môn.”
Evaṃ, bho gotama, brāhmaṇānaṃ paccorohaṇī hotī”ti.

“Sai khác, này Bà-la-môn, là lễ xuất ly của các Bà-la-môn. Sai khác là sự xuất ly trong Luật bậc Thánh.”
“Aññathā kho, brāhmaṇa, brāhmaṇānaṃ paccorohaṇī hoti, aññathā ca pana ariyassa vinaye paccorohaṇī hotī”ti.

“Như thế nào, thưa Tôn giả Gotama, là sự xuất ly trong Luật bậc Thánh?
“Yathā kathaṃ pana, bho gotama, ariyassa vinaye paccorohaṇī hoti?

Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho chúng tôi thế nào là trong Luật của bậc Thánh!”
Sādhu me bhavaṃ gotamo tathā dhammaṃ desetu yathā ariyassa vinaye paccorohaṇī hotī”ti.

“Này Bà-la-môn, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.”
“Tena hi, brāhmaṇa, suṇāhi, sādhukaṃ manasi karohi; bhāsissāmī”ti.

“Thưa vâng, Tôn giả,” Bà-la-môn Jānussoṇi vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
“Evaṃ, bho”ti kho jāṇussoṇi brāhmaṇo bhagavato paccassosi. Bhagavā etadavoca:

“2. Ở đây, này Bà-la-môn, vị Thánh đệ tử suy xét như sau:
“Idha, brāhmaṇa, ariyasāvako iti paṭisañcikkhati:

‘Tà kiến đưa đến ác quả dị thục, ngay trong hiện tại và trong tương lai.’
‘micchādiṭṭhiyā kho pāpako vipāko, diṭṭhe ceva dhamme abhisamparāyañcā’ti.

Sau khi suy xét như vậy, vị ấy từ bỏ tà kiến, ra khỏi tà kiến.
So iti paṭisaṅkhāya micchādiṭṭhiṃ pajahati; micchādiṭṭhiyā paccorohati.

‘Tà tư duy đưa đến ác quả dị thục, ngay trong hiện tại và trong tương lai.’
… ‘Micchāsaṅkappassa kho pāpako vipāko—diṭṭhe ceva dhamme abhisamparāyañcā’ti.

Sau khi suy xét như vậy, vị ấy từ bỏ tà tư duy, ra khỏi tà tư duy.
So iti paṭisaṅkhāya micchāsaṅkappaṃ pajahati; micchāsaṅkappā paccorohati.

Tà ngữ đưa đến ác quả dị thục; ngay trong hiện tại và trong tương lai.
… ‘Micchāvācāya kho pāpako vipāko—diṭṭhe ceva dhamme abhisamparāyañcā’ti.

Sau khi suy xét như vậy, vị ấy từ bỏ tà ngữ, ra khỏi tà ngữ.
So iti paṭisaṅkhāya micchāvācaṃ pajahati; micchāvācāya paccorohati.

Tà nghiệp đưa đến ác quả dị thục ngay trong hiện tại và trong tương lai
… ‘Micchākammantassa kho pāpako vipāko—diṭṭhe ceva dhamme abhisamparāyañcā’ti.

Sau khi suy xét như vậy, vị ấy từ bỏ tà nghiệp ra khỏi tà nghiệp.
So iti paṭisaṅkhāya micchākammantaṃ pajahati; micchākammantā paccorohati.

‘Tà mạng đưa đến ác quả dị thục ngay trong hiện tại và trong tương lai.’
… ‘Micchāājīvassa kho pāpako vipāko—diṭṭhe ceva dhamme abhisamparāyañcā’ti.

Sau khi suy xét như vậy, vị ấy từ bỏ tà mạng ra khỏi tà mạng.
So iti paṭisaṅkhāya micchāājīvaṃ pajahati; micchāājīvā paccorohati.

‘Tà tinh tấn đưa đến ác quả dị thục ngay trong hiện tại và trong tương lai.’
… ‘Micchāvāyāmassa kho pāpako vipāko— diṭṭhe ceva dhamme abhisamparāyañcā’ti.

Sau khi suy xét như vậy, vị ấy từ bỏ tà tinh tấn ra khỏi tà tinh tấn.
So iti paṭisaṅkhāya micchāvāyāmaṃ pajahati; micchāvāyāmā paccorohati.

‘Tà niệm đưa đến ác quả dị thục ngay trong hiện tại và trong tương lai.’
… ‘Micchāsatiyā kho pāpako vipāko—diṭṭhe ceva dhamme abhisamparāyañcā’ti.

Sau khi suy xét như vậy, vị ấy từ bỏ tà niệm ra khỏi tà niệm.
So iti paṭisaṅkhāya micchāsatiṃ pajahati; micchāsatiyā paccorohati.

‘Tà định đưa đến ác quả dị thục ngay trong hiện tại và trong tương lai.’
… ‘Micchāsamādhissa kho pāpako vipāko—diṭṭhe ceva dhamme abhisamparāyañcā’ti.

Sau khi suy xét như vậy, vị ấy từ bỏ tà định ra khỏi tà định.
So iti paṭisaṅkhāya micchāsamādhiṃ pajahati; micchāsamādhimhā paccorohati.

‘Tà trí đưa đến ác quả dị thục ngay trong hiện tại và trong tương lai.’
… ‘Micchāñāṇassa kho pāpako vipāko—diṭṭhe ceva dhamme abhisamparāyañcā’ti.

Sau khi suy xét như vậy, vị ấy từ bỏ tà trí ra khỏi tà trí.
So iti paṭisaṅkhāya micchāñāṇaṃ pajahati; micchāñāṇamhā paccorohati.

‘Tà giải thoát đưa đến ác quả dị thục ngay trong hiện tại và trong tương lai.’
… ‘Micchāvimuttiyā kho pāpako vipāko—diṭṭhe ceva dhamme abhisamparāyañcā’ti.

Sau khi suy xét như vậy, vị ấy từ bỏ tà giải thoát, ra khỏi tà giải thoát.
So iti paṭisaṅkhāya micchāvimuttiṃ pajahati; micchāvimuttiyā paccorohati.

Như vậy, này Bà-la-môn, là sự xuất ly trong Luật của bậc Thánh.”
Evaṃ kho, brāhmaṇa, ariyassa vinaye paccorohaṇī hotī”ti.

“3. Sai khác, thưa Tôn giả Gotama, là lễ xuất ly của các Bà-la-môn. Sai khác là sự xuất ly trong Luật của bậc Thánh.
“Aññathā, bho gotama, brāhmaṇānaṃ paccorohaṇī, aññathā ca pana ariyassa vinaye paccorohaṇī hoti.

Thưa Tôn giả Gotama, sự xuất ly của các Bà-la-môn không bằng giá trị của phần mười sáu, so với sự xuất ly trong Luật bậc Thánh.
Imissā ca, bho gotama, ariyassa vinaye paccorohaṇiyā brāhmaṇānaṃ paccorohaṇī kalaṃ nāgghati soḷasiṃ.

Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! …
Abhikkantaṃ, bho gotama ...pe...

Mong Tôn giả Gotama bắt đầu từ nay nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung con xin quy ngưỡng.”
upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatan”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt