Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 10.29

Tăng Chi Bộ 10.29
Aṅguttara Nikāya 10.29

3. Đại Phẩm
3. Mahāvagga

Người Kosala
Paṭhamakosalasutta

“1. Này các Tỷ-kheo, xa trông như thế nào là nước Kāsi Kosala, xa rộng như thế nào, là sự trị vì của vua Pasanadi nước Kosala, trong phạm vi như vậy, vua Pasenadi nước Kosala được xem là tối thượng.
“Yāvatā, bhikkhave, kāsikosalā, yāvatā rañño pasenadissa kosalassa vijitaṃ, rājā tattha pasenadi kosalo aggamakkhāyati.

Tuy vậy, này các Tỷ-kheo, đối với vua Pasenadi, nước Kosala có sự đổi khác, có sự biến hoại.
Raññopi kho, bhikkhave, pasenadissa kosalassa attheva aññathattaṃ atthi vipariṇāmo.

Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều nhàm chán trong (vấn đề) ấy;
Evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako tasmimpi nibbindati.

do nhàm chán trong (vấn đề) ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nói gì đối với hạ liệt.
Tasmiṃ nibbindanto agge virajjati, pageva hīnasmiṃ.

2. Này các Tỷ-kheo, xa cho đến mặt trăng, mặt trời di chuyển, xoay chuyển, chói sáng các phương, cho đến như vậy là ngàn thế giới.
Yāvatā, bhikkhave, candimasūriyā pariharanti disā bhanti virocamānā, tāva sahassadhā loko.

Trong ngàn thế giới ấy, có 1000 mặt trăng, có 1000 mặt trời, có 1000 vua núi Sineru, có 1000 cõi Diêm phù đề, 1000 Tây ngưu Hóa châu, 1000 Bắc-cu-lô-chân, 1000 Ðông thắng Thần châu, 4000 biển lớn, 4000 Ðại vương, 1000 Bốn đại Thiên vương, 1000 Tam thập tam thiên, 1000 Dạ-ma-thiên, 1000 Ðâu-suất thiên, 1000 Hóa lạc thiên, 1000 Tha hóa Tự tại thiên, 1000 Phạm thiên giới.
Tasmiṃ sahassadhā loke sahassaṃ candānaṃ sahassaṃ sūriyānaṃ sahassaṃ sinerupabbatarājānaṃ sahassaṃ jambudīpānaṃ sahassaṃ aparagoyānānaṃ sahassaṃ uttarakurūnaṃ sahassaṃ pubbavidehānaṃ cattāri mahāsamuddasahassāni cattāri mahārājasahassāni sahassaṃ cātumahārājikānaṃ sahassaṃ tāvatiṃsānaṃ sahassaṃ yāmānaṃ sahassaṃ tusitānaṃ sahassaṃ nimmānaratīnaṃ sahassaṃ paranimmitavasavattīnaṃ sahassaṃ brahmalokānaṃ.

Này các Tỷ-kheo, xa rộng cho đến 1000 thế giới, Ðại phạm Thiên ở đấy được xem là tối thượng.
Yāvatā, bhikkhave, sahassī lokadhātu, mahābrahmā tattha aggamakkhāyati.

Tuy vậy, này các Tỷ-kheo, đối với Ðại Phạm thiên có sự đổi khác, có sự biến hoại.
Mahābrahmunopi kho, bhikkhave, attheva aññathattaṃ atthi vipariṇāmo.

Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều nhàm chán trong (Ðại Phạm thiên) ấy,
Evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako tasmimpi nibbindati.

do nhàm chán trong (Ðại Phạm thiên) ấy, từ bỏ sự tối thượng, còn nói gì đối với hạ liệt.
Tasmiṃ nibbindanto agge virajjati, pageva hīnasmiṃ.

3. Này các Tỳ-kheo, có một thời, đến thời ấy, thế giới này chuyển hoại, trong khi thế giới chuyển hoại,
Hoti so, bhikkhave, samayo yaṃ ayaṃ loko saṃvaṭṭati.

này các Tỷ-kheo, các loài hữu tình phần lớn sanh qua cõi Abhassara (Quang âm thiên).
Saṃvaṭṭamāne, bhikkhave, loke yebhuyyena sattā ābhassarasaṃvattanikā bhavanti.

Ở tại đấy, chúng sanh này do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh, và sống như vậy một thời gian khá dài.
Te tattha honti manomayā pītibhakkhā sayaṃpabhā antalikkhecarā subhaṭṭhāyino ciraṃ dīghamaddhānaṃ tiṭṭhanti.

Này các Tỷ-kheo, trong khi thế giới chuyển hoại, các Quang âm thiên được xem là tối thượng.
Saṃvaṭṭamāne, bhikkhave, loke ābhassarā devā aggamakkhāyanti.

Nhưng này các Tỷ-kheo, đối với chư Quang âm thiên, có sự đổi khác, có sự biến hoại.
Ābhassarānampi kho, bhikkhave, devānaṃ attheva aññathattaṃ atthi vipariṇāmo.

Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong (chư Quang âm thiên) ấy;
Evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako tasmimpi nibbindati.

do nhàm chán trong (Quang âm thiên) ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nói gì đối với hạ liệt.
Tasmiṃ nibbindanto agge virajjati, pageva hīnasmiṃ.

4. Này các Tỷ-kheo, có mười Thiền án xứ này. Thế nào là mười?
Dasayimāni, bhikkhave, kasiṇāyatanāni. Katamāni dasa?

Một người tưởng tri Thiền án đất, phía trên, phía dưới, bề ngang, không hai, vô lượng.
Pathavīkasiṇameko sañjānāti uddhaṃ adho tiriyaṃ advayaṃ appamāṇaṃ;

Một người tưởng tri Thiền án nước …
āpokasiṇameko sañjānāti ...pe...

một người tưởng tri Thiền án lửa …
tejokasiṇameko sañjānāti …

một người tưởng tri Thiền án gió …
vāyokasiṇameko sañjānāti …

một người tưởng tri Thiền án xanh …
nīlakasiṇameko sañjānāti …

một người tưởng tri Thiền án vàng …
pītakasiṇameko sañjānāti …

một người tưởng tri Thiền án đỏ …
lohitakasiṇameko sañjānāti …

một người tưởng tri Thiền án trắng …
odātakasiṇameko sañjānāti …

một người tưởng tri Thiền án hư không …
ākāsakasiṇameko sañjānāti …

một người tưởng tri Thiền án thức, phía trên, phía dưới, bề ngang, không hai, vô lượng.
viññāṇakasiṇameko sañjānāti uddhaṃ adho tiriyaṃ advayaṃ appamāṇaṃ.

Này các Tỷ-kheo, có mười Thiền án xứ này.
Imāni kho, bhikkhave, dasa kasiṇāyatanāni.

5. Cái này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong mười Thiền án xứ này, tức là Thiền án thức. Có người tưởng tri phía trên, phía dưới, bề ngang, không hai, vô lượng.
Etadaggaṃ, bhikkhave, imesaṃ dasannaṃ kasiṇāyatanānaṃ yadidaṃ viññāṇakasiṇaṃ eko sañjānāti uddhaṃ adho tiriyaṃ advayaṃ appamāṇaṃ.

Này các Tỷ-kheo, có những chúng sanh có tưởng như vậy.
Evaṃsaññinopi kho, bhikkhave, santi sattā.

Ðối với các chúng sanh có tưởng như vậy, này các Tỷ-kheo, có sự đổi khác, có sự biến hoại.
Evaṃsaññīnampi kho, bhikkhave, sattānaṃ attheva aññathattaṃ atthi vipariṇāmo.

Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều nhàm chán trong ấy;
Evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako tasmimpi nibbindati.

do nhàm chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nói gì với hạ liệt.
Tasmiṃ nibbindanto agge virajjati, pageva hīnasmiṃ.

6. Này các Tỷ-kheo, có tám thắng xứ này. Thế nào là tám?
Aṭṭhimāni, bhikkhave, abhibhāyatanāni. Katamāni aṭṭha?

Một vị quán tưởng nội sắc, thấy các loại ngoại sắc có hạn lượng, đẹp, xấu.
Ajjhattaṃ rūpasaññī eko bahiddhā rūpāni passati parittāni suvaṇṇadubbaṇṇāni;

Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau: “Ta biết, ta thấy”.
‘tāni abhibhuyya jānāmi passāmī’ti, evaṃsaññī hoti.

Ðó là thắng xứ thứ nhất.
Idaṃ paṭhamaṃ abhibhāyatanaṃ.

Một vị quán tưởng nội sắc, thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu.
Ajjhattaṃ rūpasaññī eko bahiddhā rūpāni passati appamāṇāni suvaṇṇadubbaṇṇāni;

Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau: “Ta biết, ta thấy”.
‘tāni abhibhuyya jānāmi passāmī’ti, evaṃsaññī hoti.

Ðó là thắng xứ thứ hai.
Idaṃ dutiyaṃ abhibhāyatanaṃ.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc có hạn lượng, đẹp, xấu.
Ajjhattaṃ arūpasaññī eko bahiddhā rūpāni passati parittāni suvaṇṇadubbaṇṇāni;

Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau: “Ta biết, Ta thấy”.
‘tāni abhibhuyya jānāmi passāmī’ti, evaṃsaññī hoti.

Ðó là thắng xứ thứ ba.
Idaṃ tatiyaṃ abhibhāyatanaṃ.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu.
Ajjhattaṃ arūpasaññī eko bahiddhā rūpāni passati appamāṇāni suvaṇṇadubbaṇṇāni;

Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau: “Ta biết, ta thấy”.
‘tāni abhibhuyya jānāmi passāmī’ti, evaṃsaññī hoti.

Ðó là thắng xứ thứ tư.
Idaṃ catutthaṃ abhibhāyatanaṃ.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh.
Ajjhattaṃ arūpasaññī eko bahiddhā rūpāni passati nīlāni nīlavaṇṇāni nīlanidassanāni nīlanibhāsāni.

như bông gai màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh – như bông gai màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh – như lụa Ba-la-nại, cả hai mặt láng trơn, màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh.
Seyyathāpi nāma umāpupphaṃ nīlaṃ nīlavaṇṇaṃ nīlanidassanaṃ nīlanibhāsaṃ, seyyathā vā pana taṃ vatthaṃ bārāṇaseyyakaṃ ubhatobhāgavimaṭṭhaṃ nīlaṃ nīlavaṇṇaṃ nīlanidassanaṃ nīlanibhāsaṃ;

Như vậy, vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc màu xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh.
evamevaṃ ajjhattaṃ arūpasaññī eko bahiddhā rūpāni passati nīlāni nīlavaṇṇāni nīlanidassanāni nīlanibhāsāni;

Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau: “Ta thấy, ta biết”. Ðó là thắng xứ thứ năm.
‘tāni abhibhuyya jānāmi passāmī’ti, evaṃsaññī hoti. Idaṃ pañcamaṃ abhibhāyatanaṃ.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu vàng, sắc màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng.
Ajjhattaṃ arūpasaññī eko bahiddhā rūpāni passati pītāni pītavaṇṇāni pītanidassanāni pītanibhāsāni.

như bông Kanak Champa màu vàng, sắc màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng – như lụa Ba-la-nại cả hai mặt láng trơn màu vàng, sắc màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng.
Seyyathāpi nāma kaṇikārapupphaṃ pītaṃ pītavaṇṇaṃ pītanidassanaṃ pītanibhāsaṃ, seyyathā vā pana taṃ vatthaṃ bārāṇaseyyakaṃ ubhatobhāgavimaṭṭhaṃ pītaṃ pītavaṇṇaṃ pītanidassanaṃ pītanibhāsaṃ;

Như vậy, vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu vàng, sắc màu vàng, tướng sắc màu vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng.
evamevaṃ ajjhattaṃ arūpasaññī eko bahiddhā rūpāni passati pītāni pītavaṇṇāni pītanidassanāni pītanibhāsāni;

Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau: “Ta biết, ta thấy”. Ðó là thắng xứ thứ sáu.
‘tāni abhibhuyya jānāmi passāmī’ti, evaṃsaññī hoti. Idaṃ chaṭṭhaṃ abhibhāyatanaṃ.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng màu đỏ, hình sắc đỏ.
Ajjhattaṃ arūpasaññī eko bahiddhā rūpāni passati lohitakāni lohitakavaṇṇāni lohitakanidassanāni lohitakanibhāsāni.

như bông Ngũ Phướng màu đỏ, như lụa Ba-la-nại, cả hai mặt láng trơn, màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng màu đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ.
Seyyathāpi nāma bandhujīvakapupphaṃ lohitakaṃ lohitakavaṇṇaṃ lohitakanidassanaṃ lohitakanibhāsaṃ, seyyathā vā pana taṃ vatthaṃ bārāṇaseyyakaṃ ubhatobhāgavimaṭṭhaṃ lohitakaṃ lohitakavaṇṇaṃ lohitakanidassanaṃ lohitakanibhāsaṃ;

Như vậy, vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng sắc đỏ, hình sắc đỏ,…ánh sáng đỏ.
evamevaṃ ajjhattaṃ arūpasaññī eko bahiddhā rūpāni passati lohitakāni lohitakavaṇṇāni lohitakanidassanāni lohitakanibhāsāni;

Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau: “Ta biết, ta thấy”. Ðó là thắng xứ thứ bảy.
‘tāni abhibhuyya jānāmi passāmī’ti, evaṃsaññī hoti. Idaṃ sattamaṃ abhibhāyatanaṃ.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng.
Ajjhattaṃ arūpasaññī eko bahiddhā rūpāni passati odātāni odātavaṇṇāni odātanidassanāni odātanibhāsāni.

như sao mai Osadhi màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng – như lụa Ba-la-nại, cả hai mặt láng trơn, màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng.
Seyyathāpi nāma osadhitārakā odātā odātavaṇṇā odātanidassanā odātanibhāsā, seyyathā vā pana taṃ vatthaṃ bārāṇaseyyakaṃ ubhatobhāgavimaṭṭhaṃ odātaṃ odātavaṇṇaṃ odātanidassanaṃ odātanibhāsaṃ;

Như vậy, vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng.
evamevaṃ ajjhattaṃ arūpasaññī eko bahiddhā rūpāni passati odātāni odātavaṇṇāni odātanidassanāni odātanibhāsāni;

Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau: “Ta biết, ta thấy”. Ðó là thắng thứ tám.
‘tāni abhibhuyya jānāmi passāmī’ti, evaṃsaññī hoti. Idaṃ aṭṭhamaṃ abhibhāyatanaṃ.

Này các Tỷ-kheo, có tám thắng xứ này.
Imāni kho, bhikkhave, aṭṭha abhibhāyatanāni.

7. Cái này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong tám thắng xứ này, tức là có người tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, tướng màu trắng, hình sắc màu trắng, ánh sáng trắng.
Etadaggaṃ, bhikkhave, imesaṃ aṭṭhannaṃ abhibhāyatanānaṃ yadidaṃ ajjhattaṃ arūpasaññī eko bahiddhā rūpāni passati odātāni odātavaṇṇāni odātanidassanāni odātanibhāsāni;

Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau: “Ta biết, ta thấy”.
‘tāni abhibhuyya jānāmi passāmī’ti, evaṃsaññī hoti.

Này các Tỷ-kheo, có những chúng sanh có tưởng như vậy.
Evaṃsaññinopi kho, bhikkhave, santi sattā.

Ðối với các chúng sanh có tưởng như vậy, này các Tỷ-kheo, có sự đổi khác, có sự biến hoại.
Evaṃsaññīnampi kho, bhikkhave, sattānaṃ attheva aññathattaṃ atthi vipariṇāmo.

Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong ấy.
Evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako tasmimpi nibbindati.

Do nhàm chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nó gì đối với hạ liệt.
Tasmiṃ nibbindanto agge virajjati, pageva hīnasmiṃ.

8. Này các Tỷ-kheo, có bốn con đường này. Thế nào là bốn?
Catasso imā, bhikkhave, paṭipadā. Katamā catasso?

Con đường khổ thắng tri chậm;
con đường khổ thắng tri mau;
con đường lạc thắng tri chậm;
con đường lạc thắng tri mau.
Dukkhā paṭipadā dandhābhiññā,
dukkhā paṭipadā khippābhiññā,
sukhā paṭipadā dandhābhiññā,
sukhā paṭipadā khippābhiññā—

Này các Tỷ-kheo, có bốn con đường này.
imā kho, bhikkhave, catasso paṭipadā.

9. Cái này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong bốn con đường này, tức là con đường lạc thắng tri mau.
Etadaggaṃ, bhikkhave, imāsaṃ catunnaṃ paṭipadānaṃ yadidaṃ sukhā paṭipadā khippābhiññā.

Này các Tỷ-kheo, có những chúng sanh thực hành như vậy.
Evaṃpaṭipannāpi kho, bhikkhave, santi sattā.

Ðối với các chúng sanh thực hành như vậy, này các Tỷ-kheo, có sự đổi khác, có sự biến hoại.
Evaṃpaṭipannānampi kho, bhikkhave, sattānaṃ attheva aññathattaṃ atthi vipariṇāmo.

Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong ấy.
Evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako tasmimpi nibbindati.

Do nhàm chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nói gì đối với hạ liệt.
Tasmiṃ nibbindanto agge virajjati, pageva hīnasmiṃ.

10. Này các Tỷ-kheo, có bốn tưởng này. Thế nào là bốn?
Catasso imā, bhikkhave, saññā. Katamā catasso?

Có người tưởng tri có hạn lượng.
Có người tưởng tri đại hành.
Có người tưởng tri vô lượng.
Parittameko sañjānāti,
mahaggatameko sañjānāti,
appamāṇameko sañjānāti,

Có người tưởng tri Vô sở hữu xứ, nghĩ rằng: “Không có sự vật gì”.
‘natthi kiñcī’ti ākiñcaññāyatanameko sañjānāti—

Này các Tỷ-kheo, có bốn tưởng này.
imā kho, bhikkhave, catasso saññā.

11. Cái này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong bốn tưởng này, tức là có người tưởng tri Vô sở hữu xứ, nghĩ rằng: “Không có sự vật gì”.
Etadaggaṃ, bhikkhave, imāsaṃ catunnaṃ saññānaṃ yadidaṃ ‘natthi kiñcī’ti ākiñcaññāyatanameko sañjānāti.

Này các Tỷ-kheo có những chúng sanh có tưởng như vậy.
Evaṃsaññinopi kho, bhikkhave, santi sattā.

Ðối với các chúng sanh có tưởng như vậy, này các Tỷ-kheo, có sự đổi khác, có sự biến thoại.
Evaṃsaññīnampi kho, bhikkhave, sattānaṃ attheva aññathattaṃ atthi vipariṇāmo.

Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong ấy.
Evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako tasmimpi nibbindati.

Do nhàm chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nói gì đối với hạ liệt.
Tasmiṃ nibbindanto agge virajjati, pageva hīnasmiṃ.

12. Cái này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong các thành kiến của các dị học, tức là: “Nếu ta không có trong lúc ấy, thời nay đã không có của ta. Nếu ta sẽ không có, thời sẽ không có của ta”.
Etadaggaṃ, bhikkhave, bāhirakānaṃ diṭṭhigatānaṃ yadidaṃ ‘no cassaṃ, no ca me siyā, na bhavissāmi, na me bhavissatī’ti.

Với người có tri kiến như vậy, này các Tỷ-kheo, có thể chờ đợi như sau:
Evaṃdiṭṭhino, bhikkhave, etaṃ pāṭikaṅkhaṃ:

Sự không nhàm chán này đối với hữu sẽ không có đối với người ấy.
‘yā cāyaṃ bhave appaṭikulyatā, sā cassa na bhavissati;

Sự nhàm chán này đối với hữu diệt sẽ không có đối với người ấy.
yā cāyaṃ bhavanirodhe pāṭikulyatā, sā cassa na bhavissatī’ti.

Này các Tỷ-kheo, có những chúng sanh có tri kiến như vậy.
Evaṃdiṭṭhinopi kho, bhikkhave, santi sattā.

Ðối với chúng sanh có tri kiến như vậy, này các Tỷ-kheo, có sự đổi khác, có sự biến hoại.
Evaṃdiṭṭhīnampi kho, bhikkhave, sattānaṃ attheva aññathattaṃ atthi vipariṇāmo.

Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong ấy.
Evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako tasmimpi nibbindati.

Do nhàm chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nói gì đối với các hạ liệt.
Tasmiṃ nibbindanto agge virajjati, pageva hīnasmiṃ.

13. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn tuyên bố thanh tịnh là mục đích tối thắng.
Santi, bhikkhave, eke samaṇabrāhmaṇā paramatthavisuddhiṃ paññāpenti.

14. Cái này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong các vị tuyên bố thanh tịnh là mục đích tối thắng, tức là sự vượt qua một cách hoàn toàn Vô sở hữu xứ, sự chứng đạt và an trú Phi tưởng phi tưởng xứ.
Etadaggaṃ, bhikkhave, paramatthavisuddhiṃ paññapentānaṃ yadidaṃ sabbaso ākiñcaññāyatanaṃ samatikkamma nevasaññānāsaññāyatanaṃ upasampajja viharati.

Họ thuyết pháp để thắng tri cái ấy, để giác ngộ cái ấy.
Te tadabhiññāya tassa sacchikiriyāya dhammaṃ desenti.

Này các Tỷ-kheo, có những chúng sanh có nói như vậy.
Evaṃvādinopi kho, bhikkhave, santi sattā.

Này các Tỷ-kheo, đối với các chúng sanh có nói như vậy, có sự đổi khác, có sự biến hoại.
Evaṃvādīnampi kho, bhikkhave, sattānaṃ attheva aññathattaṃ atthi vipariṇāmo.

Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong ấy.
Evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako tasmimpi nibbindati.

Do nhàm chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nói gì với các hạ liệt.
Tasmiṃ nibbindanto agge virajjati, pageva hīnasmiṃ.

15. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Ba-la-môn tuyên bố hiện tại Niết-bàn là mục đích tối thắng.
Santi, bhikkhave, eke samaṇabrāhmaṇā paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ paññāpenti.

16. Cái này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong các vị tuyên bố hiện tại Niết-bàn là mục đích tối thắng, tức là sau khi như thật biết sự tập khởi, sự chấm dứt vị ngọt, sự nguy hại và sự xuất ly của sáu xúc xứ, được giải thoát không có chấp thủ.
Etadaggaṃ, bhikkhave, paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ paññapentānaṃ yadidaṃ channaṃ phassāyatanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ viditvā anupādā vimokkho.

Và một số Sa-môn, Ba-la-môn xuyên tạc Ta với điều không thật là phi hữu, trống không, nói láo, nói rằng:
Evaṃvādiṃ kho maṃ, bhikkhave, evamakkhāyiṃ eke samaṇabrāhmaṇā asatā tucchā musā abhūtena abbhācikkhanti:

‘Sa-môn Gotama không tuyên bố sự liễu tri các dục, không tuyên bố sự liễu tri các sắc, không tuyên bố sự liễu tri các thọ.’
‘samaṇo gotamo na kāmānaṃ pariññaṃ paññāpeti, na rūpānaṃ pariññaṃ paññāpeti, na vedanānaṃ pariññaṃ paññāpetī’ti.

17. Và này các Tỷ-kheo, ta tuyên bố sự liễu tri các dục, Ta tuyên bố sự liễu tri các sắc, ta tuyên bố sự liễu tri các thọ, Ta tuyên bố ngay trong hiện tại sự vô dục, tịch diệt, thanh lương không chấp thủ, Bát-niết-bàn.”
Kāmānañcāhaṃ, bhikkhave, pariññaṃ paññāpemi, rūpānañca pariññaṃ paññāpemi, vedanānañca pariññaṃ paññāpemi, diṭṭheva dhamme nicchāto nibbuto sītibhūto anupādā parinibbānaṃ paññāpemī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt