Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 10.75

Tăng Chi Bộ 10.75
Aṅguttara Nikāya 10.75

8. Phẩm Ước Nguyện
8. Ākaṅkhavagga

Migasalà
Migasālāsutta

1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn ông Anāthapiṇḍika.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Rồi Tôn giả Ānanda vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát đi đến trú xứ của nữ cư sĩ Migasālā; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn.
Atha kho āyasmā ānando pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena migasālāya upāsikāya nivesanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi.

Rồi nữ cư sĩ Migasālā đi đến Tôn giả Ānanda, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ānanda rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, nữ cư sĩ Migasālā bạch Tôn giả Ānanda:
Atha kho migasālā upāsikā yenāyasmā ānando tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnā kho migasālā upāsikā āyasmantaṃ ānandaṃ etadavoca:

“2. Thưa Tôn giả Ānanda, như thế nào cần phải hiểu pháp được Thế Tôn thuyết giảng, rằng người sống phạm hạnh và người sống không phạm hạnh, cả hai sẽ đồng một chỗ thọ sanh trong đời sau?
“Kathaṃ kathaṃ nāmāyaṃ, bhante ānanda, bhagavatā dhammo desito aññeyyo, yatra hi nāma brahmacārī ca abrahmacārī ca ubho samasamagatikā bhavissanti abhisamparāyaṃ.

Thưa Tôn giả, phụ thân con Purāṇa sống phạm hạnh, sống viễn ly, từ bỏ dâm dục hèn hạ.
Pitā me, bhante, purāṇo brahmacārī hoti ārācārī virato methunā gāmadhammā.

Vị ấy, khi mệnh chung được Thế Tôn trả lời: “Là bậc Nhất lai, sanh với thân ở Tusita”.
So kālaṅkato bhagavatā byākato: ‘sakadāgāmī satto tusitaṃ kāyaṃ upapanno’ti.

Còn Isidatta, cậu của con, thưa Tôn giả, sống không Phạm hạnh, tự bằng lòng với vợ mình.
Pitāmaho me, bhante, isidatto abrahmacārī ahosi sadārasantuṭṭho.

sau khi mệnh chung, được Thế Tôn trả lời: “Là bậc Nhất lai, sanh với thân ở Tusita”.
Sopi kālaṅkato bhagavatā byākato: ‘sakadāgāmī satto tusitaṃ kāyaṃ upapanno’ti.

Như thế nào, thế nào, thưa Tôn giả Ānanda, cần phải hiểu pháp này do Thế Tôn tuyên thuyết (nói rằng): “Cả hai, sống phạm hạnh và sống không phạm hạnh đều đồng đẳng về sanh thú trong tương lai”?”
Kathaṃ kathaṃ nāmāyaṃ, bhante ānanda, bhagavatā dhammo desito aññeyyo, yatra hi nāma brahmacārī ca abrahmacārī ca ubho samasamagatikā bhavissanti abhisamparāyan”ti?

“Này Chị, chính như vậy là câu trả lời của Thế Tôn.”
“Evaṃ kho panetaṃ, bhagini, bhagavatā byākatan”ti.

3. Rồi Tôn giả Ānanda, sau khi nhận đồ khất thực tại nhà của nữ cư sĩ Migasālā, từ chỗ ngồi đứng dậy rồi ra đi.
Atha kho āyasmā ānando migasālāya upāsikāya nivesane piṇḍapātaṃ gahetvā uṭṭhāyāsanā pakkāmi.

Rồi Tôn giả Ānanda sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā ānando pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca:

Ở đây, bạch Thế Tôn, vào buổi sáng, con đắp y, cầm y bát đi đến trú xứ của nữ cư sĩ Migasālā, sau khi đến, con ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn.
“Idhāhaṃ, bhante, pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena migasālāya upāsikāya nivesanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdiṃ.

Bạch Thế Tôn, rồi nữ cư sĩ Migasālā đi đến con, sau khi đến, đảnh lễ con ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn, nữ cư sĩ Migasālā thưa với con:
Atha kho, bhante, migasālā upāsikā yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnā kho, bhante, migasālā upāsikā maṃ etadavoca:

“Như thế nào, thế nào, thưa Tôn giả Ānanda, cần phải hiểu pháp này do Thế Tôn thuyết (nói rằng): “Cả hai, sống phạm hạnh và sống không phạm hạnh đều đồng đẳng về sanh thú trong tương lai”?
‘Kathaṃ kathaṃ nāmāyaṃ, bhante ānanda, bhagavatā dhammo desito aññeyyo, yatra hi nāma brahmacārī ca abrahmacārī ca ubho samasamagatikā bhavissanti abhisamparāyaṃ.

“Purāṇa thân phụ con, thưa Tôn giả, sống phạm hạnh, sống viễn ly, tránh xa dâm dục hạ liệt.
Pitā me, bhante, purāṇo brahmacārī ahosi ārācārī virato methunā gāmadhammā.

Khi mệnh chung, được Thế Tôn trả lời: “Là bậc Nhất Lai, sanh với thân ở Tusita”.
So kālaṅkato bhagavatā byākato sakadāgāmī satto tusitaṃ kāyaṃ upapannoti.

Còn Isidatta, cậu của con, thưa Tôn giả, sống không Phạm hạnh, tự bằng lòng với vợ mình.
Pitāmaho me, bhante, isidatto abrahmacārī ahosi sadārasantuṭṭho.

Sau khi mệnh chung, được Thế Tôn trả lời: “Là bậc Nhất Lai, sanh với thân ở Tusita.”
Sopi kālaṅkato bhagavatā byākato—sakadāgāmī satto tusitaṃ kāyaṃ upapannoti.

Như thế nào, thế nào, thưa Tôn giả Ānanda, cần phải hiểu pháp này do Thế Tôn tuyên thuyết (nói rằng): “Cả hai, sống phạm hạnh và sống không phạm hạnh đều đồng đẳng về sanh thú trong tương lai”?
Kathaṃ kathaṃ nāmāyaṃ, bhante ānanda, bhagavatā dhammo desito aññeyyo, yatra hi nāma brahmacārī ca abrahmacārī ca ubho samasamagatikā bhavissanti abhisamparāyan’ti?

Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con nói với nữ cư sĩ Migasālā:
Evaṃ vutte, ahaṃ, bhante, migasālaṃ upāsikaṃ etadavocaṃ:

“Này Chị, chính như vậy là câu trả lời của Thế Tôn”.
‘evaṃ kho panetaṃ, bhagini, bhagavatā byākatan’”ti.

“Nhưng này Ānanda, ai là nữ cư sĩ Migasālā, lại ngu si, kém thông minh, với thân như bà mẹ, với trí như bà mẹ, để có thể hiểu biết sự thắng liệt giữa các người?
“Kā cānanda, migasālā upāsikā bālā abyattā ammakā ammakapaññā, ke ca purisapuggalaparopariye ñāṇe?

Này Ānanda, có mười hạng người, có mặt hiện hữu ở đời. Thế nào là mười?
Dasayime, ānanda, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame dasa?

4. Ở đây, này Ānanda, có hạng người ác giới.
Idhānanda, ekacco puggalo dussīlo hoti.

Không như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; ở đây, ác giới ấy của người ấy được diệt trừ, không có dư tàn.
Tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ nappajānāti, yatthassa taṃ dussilyaṃ aparisesaṃ nirujjhati.

Người ấy không có nghe pháp, không có học nhiều, không có thể nhập với chánh kiến, không chứng được nhất thời giải thoát.
Tassa savanenapi akataṃ hoti, bāhusaccenapi akataṃ hoti, diṭṭhiyāpi appaṭividdhaṃ hoti, sāmāyikampi vimuttiṃ na labhati.

Người ấy sau khi thân hoại mạnh chung, hướng về thối đọa, không về thù thắng;
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā hānāya pareti, no visesāya;

chỉ đi đến thối đọa, không đi về thù thắng.
hānagāmīyeva hoti, no visesagāmī.

5. Nhưng ở đây, này Ānanda, có hạng người ác giới.
Idha panānanda, ekacco puggalo dussīlo hoti.

Như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; ở đây, ác giới ấy của người được trừ diệt, không có dư tàn.
Tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ pajānāti yatthassa taṃ dussilyaṃ aparisesaṃ nirujjhati.

Người ấy có nghe pháp, có học nhiều, có khéo thể nhập với chánh kiến, chứng được nhất thời giải thoát.
Tassa savanenapi kataṃ hoti, bāhusaccenapi kataṃ hoti, diṭṭhiyāpi paṭividdhaṃ hoti, sāmāyikampi vimuttiṃ labhati.

Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, hướng về thù thắng, không hướng về thối đọa;
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā visesāya pareti, no hānāya;

chỉ đi đến thù thắng, không đi đến thối đọa.
visesagāmīyeva hoti, no hānagāmī.

Ở đây, này Ānanda, ai là người đo lường, đo như sau:
Tatrānanda, pamāṇikā pamiṇanti:

‘Những pháp ấy có mặt trong người này, những pháp ấy cũng có mặt trong người kia. Vì sao, giữa hai người ấy, một là hạ liệt, một là thù thắng?’
‘imassapi teva dhammā, aparassapi teva dhammā. Kasmā nesaṃ eko hīno eko paṇīto’ti?

Nhận xét như vậy đem lại đau khổ lâu dài cho họ.
Tañhi tesaṃ, ānanda, hoti dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya.

Ở đây này Ānanda, người này là ác giới,
Tatrānanda, yvāyaṃ puggalo dussīlo hoti.

như vậy rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy, chính ở nơi đây, ác giới ấy của người ấy được trừ diệt, không có dư tàn.
Tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ pajānāti yatthassa taṃ dussilyaṃ aparisesaṃ nirujjhati.

Với vị ấy, có nghe pháp, có học hỏi nhiều, có khéo thể nhập với chánh kiến, chứng được nhất thời giải thoát.
Tassa savanenapi kataṃ hoti, bāhusaccenapi kataṃ hoti, diṭṭhiyāpi paṭividdhaṃ hoti, sāmāyikampi vimuttiṃ labhati.

Này Ānanda, hạng người này, so sánh với hạng người trước là vi diệu hơn, là thù thắng hơn. Vì sao?
Ayaṃ, ānanda, puggalo amunā purimena puggalena abhikkantataro ca paṇītataro ca. Taṃ kissa hetu?

Vì dòng pháp đưa người này ra phía trước.
Imaṃ hānanda, puggalaṃ dhammasoto nibbahati.

Nhưng ai ngoài Như Lai có thể biết được sự khác biệt?
Tadantaraṃ ko jāneyya, aññatra tathāgatena.

Do vậy, này Ānanda, chớ có làm người đo lường các hạng người.
Tasmātihānanda, mā puggalesu pamāṇikā ahuvattha,

Chớ có làm sự đo lường các hạng người.
mā puggalesu pamāṇaṃ gaṇhittha.

Tự đào hố cho mình là người đi làm sự đo lường các hạng người.
Khaññati hānanda, puggalesu pamāṇaṃ gaṇhanto.

Chỉ có Ta, này Ānanda, mới có thể làm sự đo lường các hạng người. Ai có thể được như Ta.
Ahaṃ vā, ānanda, puggalesu pamāṇaṃ gaṇheyyaṃ yo vā panassa mādiso.

6. Ở đây, này Ānanda, có hạng người có giới.
Idha panānanda, ekacco puggalo sīlavā hoti.

Nhưng không như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; ở đây, giới ấy của người ấy được đoạn diệt, không có dư tàn.
Tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ nappajānāti yatthassa taṃ sīlaṃ aparisesaṃ nirujjhati.

Người ấy không có nghe pháp, không có học hỏi nhiều, không có thể nhập với chánh kiến, nên không chứng được nhất thời giải thoát.
Tassa savanenapi akataṃ hoti, bāhusaccenapi akataṃ hoti, diṭṭhiyāpi appaṭividdhaṃ hoti, sāmāyikampi vimuttiṃ na labhati.

Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, hướng về thối đọa, không huớng về thù thắng.
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā hānāya pareti, no visesāya;

chỉ đi đến thối đọa, không đi đến thù thắng.
hānagāmīyeva hoti, no visesagāmī.

7. Nhưng ở đây này Ānanda, có hạng người có giới.
Idha panānanda, ekacco puggalo sīlavā hoti.

Và như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; ở đây, giới ấy của người ấy được trừ diệt, không có dư tàn.
Tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ pajānāti yatthassa taṃ sīlaṃ aparisesaṃ nirujjhati.

Vị ấy có nghe pháp, có học hỏi nhiều, và khéo thể nhập với chánh kiến, vị ấy chứng được nhất thời giải thoát.
Tassa savanenapi kataṃ hoti, bāhusaccenapi kataṃ hoti, diṭṭhiyāpi paṭividdhaṃ hoti, sāmāyikampi vimuttiṃ labhati.

Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, hướng về thù thắng, không hướng về thối đọa.
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā visesāya pareti, no hānāya;

Chỉ đi đến thù thắng, không đi đến thối đọa.
visesagāmīyeva hoti, no hānagāmī.

Ở đây, này Ānanda …
Tatrānanda, pamāṇikā pamiṇanti ...pe...

Chỉ có Ta, này Ānanda, mới có thể làm sự đo lường các hạng người. Ai có thể được như Ta.
ahaṃ vā, ānanda, puggalesu pamāṇaṃ gaṇheyyaṃ yo vā panassa mādiso.

8. Nhưng ở đây, này Ānanda, có hạng người có tham rất sắc sảo.
Idha panānanda, ekacco puggalo tibbarāgo hoti.

Người ấy không như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; ở đây, tham ấy của người ấy được trừ diệt, không có tàn dư.
Tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ nappajānāti yatthassa so rāgo apariseso nirujjhati.

Người này không có nghe pháp, không có học hỏi nhiều, không có thể nhập với chánh kiến, không có chứng được nhất thời giải thoát.
Tassa savanenapi akataṃ hoti, bāhusaccenapi akataṃ hoti, diṭṭhiyāpi appaṭividdhaṃ hoti, sāmāyikampi vimuttiṃ na labhati.

Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, hướng về thối đọa, không hướng về thù thắng.
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā hānāya pareti, no visesāya;

chỉ đi đến thối đọa, không đi đến thù thắng.
hānagāmīyeva hoti, no visesagāmī.

9. Nhưng ở đây, này Ānanda, có hạng người có tham rất sắc sảo.
Idha panānanda, ekacco puggalo tibbarāgo hoti.

Người ấy như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy, ở đây, lòng tham ấy của người ấy được trừ diệt, không có dư tàn.
Tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ pajānāti yatthassa so rāgo apariseso nirujjhati.

Người ấy nghe pháp, học hỏi nhiều, khéo thể nhập với chánh kiến, chứng được nhất thời giải thoát.
Tassa savanenapi kataṃ hoti, bāhusaccenapi kataṃ hoti, diṭṭhiyāpi paṭividdhaṃ hoti, sāmāyikampi vimuttiṃ labhati.

Vị ấy sau khi thân họai mạng chung, hướng về thù thắng, không hướng về thối đọa;
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā visesāya pareti, no hānāya;

chỉ đi đến thù thắng, không đi đến thối đọa.
visesagāmīyeva hoti, no hānagāmī.

Ở đây, này Ānanda …
Tatrānanda, pamāṇikā pamiṇanti ...pe...

Chỉ có Ta, này Ānanda, mới có thể làm sự đo lường các hạng người. Ai có thể được như Ta.
ahaṃ vā, ānanda, puggalesu pamāṇaṃ gaṇheyyaṃ yo vā panassa mādiso.

10. Nhưng ở đây, này Ānanda, có hạng người phẫn nộ.
Idha panānanda, ekacco puggalo kodhano hoti.

Không như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; ở đây, lòng phẫn nộ ấy của người ấy được trừ diệt trừ, không có tàn dư.
Tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ nappajānāti yatthassa so kodho apariseso nirujjhati.

Vị ấy không có nghe pháp, không có học hỏi nhiều, không có thể nhập với chánh kiến, không chứng được nhất thời giải thoát.
Tassa savanenapi akataṃ hoti, bāhusaccenapi akataṃ hoti, diṭṭhiyāpi appaṭividdhaṃ hoti, sāmāyikampi vimuttiṃ na labhati.

Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, hướng về thối đọa, không hướng về thù thắng.
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā hānāya pareti, no visesāya;

chỉ đi đến thối đọa, không đi đến thù thắng.
hānagāmīyeva hoti, no visesagāmī.

11. Nhưng ở đây, này Ānanda, có hạng người có phẫn nộ.
Idha panānanda, ekacco puggalo kodhano hoti.

Như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; ở đây, lòng phẫn nộ ấy của người ấy được trừ diệt, không có dư tàn.
Tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ pajānāti yatthassa so kodho apariseso nirujjhati.

Vị ấy lại nghe pháp, học hỏi nhiều, và khéo thể nhập với chánh kiến, chứng được nhất thời giải thoát.
Tassa savanenapi kataṃ hoti, bāhusaccenapi kataṃ hoti, diṭṭhiyāpi paṭividdhaṃ hoti, sāmāyikampi vimuttiṃ labhati.

Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, hướng về thù thắng, không hướng về thối đọa,
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā visesāya pareti, no hānāya;

chỉ đi đến thù thắng, không đi đến thối đọa.
visesagāmīyeva hoti, no hānagāmī.

Ở đây, này Ānanda …
Tatrānanda, pamāṇikā pamiṇanti ...pe...

Chỉ có Ta, này Ānanda, mới có thể làm sự đo lường các hạng người. Ai có thể được như Ta.
ahaṃ vā, ānanda, puggalesu pamāṇaṃ gaṇheyyaṃ yo vā panassa mādiso.

12. Nhưng ở đây, này Ānanda, có hạng người có trạo cử.
Idha panānanda, ekacco puggalo uddhato hoti.

nhưng không như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; ở đây, trạo cử của người ấy được trừ diệt, không có dư tàn.
Tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ nappajānāti yatthassa taṃ uddhaccaṃ aparisesaṃ nirujjhati.

Người ấy không có nghe pháp, không có học hỏi nhiều, không có thể nhập với chánh kiến, không chứng được nhất thời giải thoát.
Tassa savanenapi akataṃ hoti, bāhusaccenapi akataṃ hoti, diṭṭhiyāpi appaṭividdhaṃ hoti, sāmāyikampi vimuttiṃ na labhati.

Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, hướng về thối đọa, không hướng về thù thắng.
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā hānāya pareti, no visesāya;

chỉ đi đến thối đọa, không đi đến thù thắng.
hānagāmīyeva hoti, no visesagāmī.

13. Nhưng ở đây, này Ānanda, có hạng người có trạo cử.
Idha panānanda, ekacco puggalo uddhato hoti.

Và như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; ở đây, trạo cử của người ấy được trừ diệt, không có tàn dư.
Tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ pajānāti yatthassa taṃ uddhaccaṃ aparisesaṃ nirujjhati.

Và vị này có nghe pháp, có học hỏi nhiều, khéo thể nhập với chánh kiến, chứng được nhất thời giải thoát.
Tassa savanenapi kataṃ hoti, bāhusaccenapi kataṃ hoti, diṭṭhiyāpi paṭividdhaṃ hoti, sāmāyikampi vimuttiṃ labhati.

Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, hướng về thù thắng, không hướng về thối đọa.
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā visesāya pareti, no hānāya;

chỉ đi đến thù thắng, không hướng về thối đọa.
visesagāmīyeva hoti, no hānagāmī.

Ở đây, này Ānanda, ai là người đo lường, đo lường như sau:
Tatrānanda, pamāṇikā pamiṇanti:

‘Những pháp ấy có mặt trong người này, những pháp ấy cũng có mặt trong người kia. Vì sao giữa hai người ấy, một là hạ liệt, một là thù diệu?’
‘imassapi teva dhammā, aparassapi teva dhammā. Kasmā nesaṃ eko hīno eko paṇīto’ti?

Nhận xét như vậy đem lại đau khổ lâu dài cho họ.
Tañhi tesaṃ, ānanda, hoti dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya.

Ở đây, này Ānanda, người này là trạo cử, và như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy, chính ở đây, trạo cử của người ấy được trừ diệt, không có dư tàn.
Tatrānanda, yvāyaṃ puggalo uddhato hoti tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ pajānāti yatthassa taṃ uddhaccaṃ aparisesaṃ nirujjhati,

Và vị ấy có nghe pháp, có học hỏi nhiều, có khéo thể nhập với chánh kiến, chứng được nhất thời giải thoát.
tassa savanenapi kataṃ hoti, bāhusaccenapi kataṃ hoti, diṭṭhiyāpi paṭividdhaṃ hoti, sāmāyikampi vimuttiṃ labhati.

Này Ānanda, hạng người này so sánh với hạng người trước, là vi diệu hơn, là thù thắng hơn. Vì sao?
Ayaṃ, ānanda, puggalo amunā purimena puggalena abhikkantataro ca paṇītataro ca. Taṃ kissa hetu?

Vì dòng pháp đưa người này ra phía trước.
Imaṃ hānanda, puggalaṃ dhammasoto nibbahati.

Nhưng ai ngoài Như Lai có thể biết được sự khác biệt?
Tadantaraṃ ko jāneyya aññatra tathāgatena.

Do vậy, này Ānanda, chớ có làm người đo lường các hạng người.
Tasmātihānanda, mā puggalesu pamāṇikā ahuvattha;

Chớ có làm sự đo lường các hạng người.
mā puggalesu pamāṇaṃ gaṇhittha.

Tự đào hố cho mình là người làm sự đo lường các hạng người.
Khaññati hānanda, puggalesu pamāṇaṃ gaṇhanto.

Chỉ có Ta, này Ānanda, mới có thể làm sự đo lường các hạng người. Ai có thể được như Ta.
Ahaṃ vā, ānanda, puggalesu pamāṇaṃ gaṇheyyaṃ yo vā panassa mādiso.

Nhưng này Ānanda, ai là nữ cư sĩ Migasālā lại ngu si, kém thông minh, với thân như bà mẹ, với trí như bà mẹ, để có thể hiểu biết sự thắng liệt giữa các người?
Kā cānanda, migasālā upāsikā bālā abyattā ammakā ammakapaññā, ke ca purisapuggalaparopariye ñāṇe.

Này Ānanda, có mười hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời.
Ime kho, ānanda, dasa puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ.

Giới như thế nào, này Ānanda, Purāṇa được thành tựu, giới ấy Isidatta chưa thành tựu. Do vậy, ở đây, Purāṇa có sanh thú khác với sanh thú của Isidatta.
Yathārūpena, ānanda, sīlena purāṇo samannāgato ahosi tathārūpena sīlena isidatto samannāgato abhavissa, nayidha purāṇo isidattassa gatimpi aññassa.

Tuệ như thế nào, này Ānanda, Isidatta được thành tựu, tuệ ấy Purāṇa chưa thành tựu. Do vậy, ở đây, Isidatta có sanh thú khác với sanh thú của Purāṇa.
Yathārūpāya cānanda, paññāya isidatto samannāgato ahosi tathārūpāya paññāya purāṇo samannāgato abhavissa, nayidha isidatto purāṇassa gatimpi aññassa.

Như vậy, này Ānanda, cả hai người này đều có thể thiếu sót một chi phần.”
Iti kho, ānanda, ime puggalā ubho ekaṅgahīnā”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt