Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 2.15

Tăng Chi Bộ 2.15
Aṅguttara Nikāya 2.15

Phẩm Tranh Luận
Adhikaraṇavagga

15.

“Trong bất cứ tranh tụng nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phạm tội và Tỷ-kheo buộc tội, không có tự mình khéo quán sát lấy mình, thời tranh tụng ấy được chờ đợi là: ‘sẽ đưa đến kéo dài, gay gắt, ác liệt, và các Tỷ-kheo sẽ sống không được an lạc.’
“Yasmiṃ, bhikkhave, adhikaraṇe āpanno ca bhikkhu codako ca bhikkhu na sādhukaṃ attanāva attānaṃ paccavekkhati tasmetaṃ, bhikkhave, adhikaraṇe pāṭikaṅkhaṃ: ‘dīghattāya kharattāya vāḷattāya saṃvattissati, bhikkhū ca na phāsuṃ viharissantī’ti.

Và trong bất cứ cuộc tranh tụng nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phạm tội và Tỷ-kheo buộc tội, có tự mình khéo quán sát lấy mình, thời tranh tụng ấy, này các Tỷ-kheo, được chờ đợi là: ‘không đưa đến kéo dài, gay gắt, ác liệt, và các Tỷ-kheo sẽ sống được an lạc.’
Yasmiñca kho, bhikkhave, adhikaraṇe āpanno ca bhikkhu codako ca bhikkhu sādhukaṃ attanāva attānaṃ paccavekkhati tasmetaṃ, bhikkhave, adhikaraṇe pāṭikaṅkhaṃ: ‘na dīghattāya kharattāya vāḷattāya saṃvattissati, bhikkhū ca phāsuṃ viharissantī’ti.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo phạm tội và Tỷ-kheo buộc tội, khéo tự mình quán sát lấy mình?
Kathañca, bhikkhave, āpanno bhikkhu sādhukaṃ attanāva attānaṃ paccavekkhati?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phạm tội quán sát như sau:
Idha, bhikkhave, āpanno bhikkhu iti paṭisañcikkhati:

“Ta phạm một tội bất thiện về thân.
‘ahaṃ kho akusalaṃ āpanno kañcideva desaṃ kāyena.

Tỷ-kheo ấy đã thấy ta phạm tội bất thiện về thân.
Maṃ so bhikkhu addasa akusalaṃ āpajjamānaṃ kañcideva desaṃ kāyena.

Nếu ta không phạm tội bất thiện về thân, Tỷ-kheo ấy sẽ không thấy ta phạm tội bất thiện về thân.
No ce ahaṃ akusalaṃ āpajjeyyaṃ kañcideva desaṃ kāyena, na maṃ so bhikkhu passeyya akusalaṃ āpajjamānaṃ kañcideva desaṃ kāyena.

Do vì ta có phạm một tội bất thiện về thân, do vậy, Tỷ-kheo ấy thấy ta có phạm tội bất thiện về thân.
Yasmā ca kho, ahaṃ akusalaṃ āpanno kañcideva desaṃ kāyena, tasmā maṃ so bhikkhu addasa akusalaṃ āpajjamānaṃ kañcideva desaṃ kāyena.

Thấy ta có phạm tội bất thiện về thân, Tỷ-kheo ấy không được hoan hỷ.
Disvā ca pana maṃ so bhikkhu akusalaṃ āpajjamānaṃ kañcideva desaṃ kāyena anattamano ahosi.

Vì không hoan hỷ, Tỷ-kheo ấy nói với ta lời không hoan hỷ.
Anattamano samāno anattamanavacanaṃ maṃ so bhikkhu avaca.

Vì ta bị Tỷ-kheo ấy nói lời không hoan hỷ, nên ta không hoan hỷ.
Anattamanavacanāhaṃ tena bhikkhunā vutto samāno anattamano ahosiṃ.

Do ta không hoan hỷ, ta nói cho các người khác biết.
Anattamano samāno paresaṃ ārocesiṃ.

Như vậy, ở đây tội đã phạm chinh phục ta như trường hợp người phải trả thuế hàng hóa của mình.’
Iti mameva tattha accayo accagamā suṅkadāyakaṃva bhaṇḍasmin’ti.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo phạm tội khéo tự mình quán sát lấy mình.
Evaṃ kho, bhikkhave, āpanno bhikkhu sādhukaṃ attanāva attānaṃ paccavekkhati.

Và thế nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo buộc tội khéo tự mình quán sát lấy mình?
Kathañca, bhikkhave, codako bhikkhu sādhukaṃ attanāva attānaṃ paccavekkhati?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo buộc tội quán sát như sau:
Idha, bhikkhave, codako bhikkhu iti paṭisañcikkhati:

‘Tỷ-kheo phạm một tội bất thiện về thân.
‘ayaṃ kho bhikkhu akusalaṃ āpanno kañcideva desaṃ kāyena.

Ta đã thấy Tỷ-kheo ấy phạm một tội bất thiện về thân.
Ahaṃ imaṃ bhikkhuṃ addasaṃ akusalaṃ āpajjamānaṃ kañcideva desaṃ kāyena.

Nếu Tỷ-kheo này không phạm tội bất thiện về thân, thời ta đã không thấy Tỷ-kheo ấy phạm tội bất thiện về thân.
No ce ayaṃ bhikkhu akusalaṃ āpajjeyya kañcideva desaṃ kāyena, nāhaṃ imaṃ bhikkhuṃ passeyyaṃ akusalaṃ āpajjamānaṃ kañcideva desaṃ kāyena.

Do vì Tỷ-kheo này có phạm một tội bất thiện về thân, do vậy Ta thấy Tỷ-kheo này phạm tội bất thiện về thân.
Yasmā ca kho, ayaṃ bhikkhu akusalaṃ āpanno kañcideva desaṃ kāyena, tasmā ahaṃ imaṃ bhikkhuṃ addasaṃ akusalaṃ āpajjamānaṃ kañcideva desaṃ kāyena.

Và sau khi thấy Tỷ-kheo này phạm tội bất thiện về thân, ta không hoan hỷ.
Disvā ca panāhaṃ imaṃ bhikkhuṃ akusalaṃ āpajjamānaṃ kañcideva desaṃ kāyena anattamano ahosiṃ.

Do ta không hoan hỷ, ta nói cho Tỷ-kheo này biết lời không hoan hỷ.
Anattamano samāno anattamanavacanāhaṃ imaṃ bhikkhuṃ avacaṃ.

Vì Tỷ-kheo này bị ta nói lời không hoan hỷ, nên không hoan hỷ.
Anattamanavacanāyaṃ bhikkhu mayā vutto samāno anattamano ahosi.

Vì không hoan hỷ, vị ấy nói cho các người khác biết.
Anattamano samāno paresaṃ ārocesi.

Như vậy, ở đây tội đã phạm chinh phục ta, như trường hợp người phải trả thuế hàng hóa của mình”.
Iti mameva tattha accayo accagamā suṅkadāyakaṃva bhaṇḍasmin’ti.

Như vậy, Tỷ-kheo buộc tội khéo tự mình quán sát lấy mình.
Evaṃ kho, bhikkhave, codako bhikkhu sādhukaṃ attanāva attānaṃ paccavekkhati.

Trong bất cứ tranh tụng nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phạm tội và Tỷ-kheo buộc tội, không tự mình khéo quán sát lấy mình, thời tranh tụng ấy được chờ đợi là sẽ đưa đến kéo dài, gay gắt, ác liệt, và các Tỷ-kheo sẽ sống không được an lạc.
Yasmiṃ, bhikkhave, adhikaraṇe āpanno ca bhikkhu codako ca bhikkhu na sādhukaṃ attanāva attānaṃ paccavekkhati tasmetaṃ, bhikkhave, adhikaraṇe pāṭikaṅkhaṃ dīghattāya kharattāya vāḷattāya saṃvattissati, bhikkhū ca na phāsuṃ viharissantīti.

Và trong bất cứ cuộc tranh tụng nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phạm tội và Tỷ-kheo buộc tội, có tự mình khéo quán sát lấy mình, thời tranh tụng ấy, này các Tỷ-kheo, được chờ đợi là không đưa đến kéo dài, gay gắt, ác liệt, và các Tỷ-kheo sẽ sống được an lạc.”
Yasmiñca kho, bhikkhave, adhikaraṇe āpanno ca bhikkhu codako ca bhikkhu sādhukaṃ attanāva attānaṃ paccavekkhati tasmetaṃ, bhikkhave, adhikaraṇe pāṭikaṅkhaṃ na dīghattāya kharattāya vāḷattāya saṃvattissati, bhikkhū ca phāsuṃ viharissantī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt