Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 3.32

Tăng Chi Bộ 3.32
Aṅguttara Nikāya 3.32

4. Phẩm Sứ Giả Của Trời
4. Devadūtavagga

Ānanda
Ānandasutta

Rồi Tôn giả Ānanda đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên; ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā ānando yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca:

“Rất có thể, bạch Thế Tôn, một Tỷ-kheo được định như vậy, trong cái thân có thức này, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên; đối với tất cả tướng ở ngoài, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên;
“Siyā nu kho, bhante, bhikkhuno tathārūpo samādhipaṭilābho yathā imasmiñca saviññāṇake kāye ahaṅ­kāra­ma­ma­ṅ­kāra­mānā­nu­sayā nāssu, bahiddhā ca sabbanimittesu ahaṅ­kāra­ma­ma­ṅ­kāra­mānā­nu­sayā nāssu;

và do chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên; vị ấy có thể chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy.”
yañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ upasampajja viharato ahaṅ­kāra­ma­ma­ṅ­kāra­mānā­nu­sayā na honti tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ upasampajja vihareyyā”ti?

“Rất có thể, này, Ānanda, một Tỷ-kheo được định như vậy, trong cái thân có thức này, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên; đối với tất cả tướng ở ngoài, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên;
“Siyā, ānanda, bhikkhuno tathārūpo samādhipaṭilābho yathā imasmiñca saviññāṇake kāye ahaṅ­kāra­ma­ma­ṅ­kāra­mānā­nu­sayā nāssu, bahiddhā ca sabbanimittesu ahaṅ­kāra­ma­ma­ṅ­kāra­mānā­nu­sayā nāssu;

và do chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên; vị ấy có thể chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy.”
yañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ upasampajja viharato ahaṅ­kāra­ma­ma­ṅ­kāra­mānā­nu­sayā na honti tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ upasampajja vihareyyā”ti.

“Như thế nào, bạch Thế Tôn, rất có thể, một Tỷ-kheo được định như vậy, trong cái thân có thức này, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên; đối với tất cả tướng ở ngoài, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên;
“Yathā kathaṃ pana, bhante, siyā bhikkhuno tathārūpo samādhipaṭilābho yathā imasmiñca saviññāṇake kāye ahaṅ­kāra­ma­ma­ṅ­kāra­mānā­nu­sayā nāssu, bahiddhā ca sabbanimittesu ahaṅ­kāra­ma­ma­ṅ­kāra­mānā­nu­sayā nāssu;

và do chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên; vị ấy có thể chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy?”
yañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ upasampajja viharato ahaṅ­kāra­ma­ma­ṅ­kāra­mānā­nu­sayā na honti tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ upasampajja vihareyyā”ti?

“Ở đây, này Ānanda, vị Tỷ-kheo suy nghĩ như sau:
“Idhānanda, bhikkhuno evaṃ hoti:

‘Ðây là an tịnh, đây là thù diệu, tức là chỉ tức tất cả hành, từ bỏ tất cả sanh y, đoạn tận tham, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn.’
‘etaṃ santaṃ etaṃ paṇītaṃ yadidaṃ sabbasaṅkhārasamatho sabbū­pa­dhi­­paṭinissaggo taṇhākkhayo virāgo nirodho nibbānan’ti.

Như vậy, này Ānanda, rất có thể Tỷ-kheo được định như vậy, trong cái thân có thức này, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên; đối với tất cả tướng ở ngoài, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên;
Evaṃ kho, ānanda, siyā bhikkhuno tathārūpo samādhipaṭilābho yathā imasmiñca saviññāṇake kāye ahaṅ­kāra­ma­ma­ṅ­kāra­mānā­nu­sayā nāssu, bahiddhā ca sabbanimittesu ahaṅ­kāra­ma­ma­ṅ­kāra­mānā­nu­sayā nāssu;

và do chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên; vị ấy có thể chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy.
yañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ upasampajja viharato ahaṅ­kāra­ma­ma­ṅ­kāra­mānā­nu­sayā na honti tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ upasampajja vihareyyāti.

Lại nữa, này Ānanda, liên hệ đến vấn đề này, Ta đã nói như sau trong kinh tên là “Những câu hỏi của Puṇṇaka”, chương về Pārāyana:
Idañca pana metaṃ, ānanda, sandhāya bhāsitaṃ pārāyane puṇṇakapañhe:

Do phân tích ở đời
Những vật cao và thấp
‘Saṅkhāya lokasmiṃ paroparāni,
Với vị không dao động
Bởi vật gì ở đời,
Yassiñjitaṃ natthi kuhiñci loke;
An tịnh, không tối mù,
Không phiền muộn, không cầu
Santo vidhūmo anīgho nirāso,
Ta nói người như vậy,
Ðã vượt khỏi sanh già.’”
Atāri so jātijaranti brūmī’”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt