Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 3.35

Tăng Chi Bộ 3.35
Aṅguttara Nikāya 3.35

4. Phẩm Sứ Giả Của Trời
4. Devadūtavagga

Về Alavì
Hatthakasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời Thế Tôn ở Āḷavī, tại Gomagga, trong rừng siṃsapā, trên chỗ có trải lá.
ekaṃ samayaṃ bhagavā āḷaviyaṃ viharati gomagge siṃsapāvane paṇṇasanthare.

Rồi Hatthaka, người Āḷavī, đang đi bộ hành du ngoạn, thấy Thế Tôn đang ngồi trên chỗ có trải lá trong rừng Siṃsapā ở Gomagga, thấy vậy, liền đi đến Thế Tôn;
Atha kho hatthako āḷavako jaṅghāvihāraṃ anucaṅkamamāno anuvicaramāno addasa bhagavantaṃ gomagge siṃsapāvane paṇṇasanthare nisinnaṃ.

Sau khi đi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Hatthaka người Āḷavī bạch Thế Tôn:
Disvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho hatthako āḷavako bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn sống có an lạc không?”
“kacci, bhante bhagavā, sukhamasayitthā”ti?

“Phải, này Hoàng Tử, ta sống được an lạc.
“Evaṃ, kumāra, sukhamasayitthaṃ.

Và những ai cảm thấy an lạc ở đời, Ta là một trong số những người ấy.”
Ye ca pana loke sukhaṃ senti, ahaṃ tesaṃ aññataro”ti.

“Bạch Thế Tôn, lạnh là đêm mùa đông, thời gian giữa những ngày tám (trước và sau ngày rằm) là thời gian tuyết rơi, cứng rắn là đất do trâu bò dẫm đạp, mỏng manh là nệm làm bằng lá, lưa thưa là những lá của cây, lạnh là tấm vải cà sa, và lạnh là làn gió thổi.
“Sītā, bhante, hemantikā ratti, antaraṭṭhako himapātasamayo, kharā gokaṇṭakahatā bhūmi, tanuko paṇṇasantharo, viraḷāni rukkhassa pattāni, sītāni kāsāyāni vatthāni, sīto ca verambho vāto vāyati.

Rồi Thế Tôn nói như sau:
Atha ca pana bhagavā evamāha:

‘Dẫu vậy, này Hoàng Tử, Ta sống được an lạc.
‘evaṃ, kumāra, sukhamasayitthaṃ.

Và những ai cảm thấy an lạc ở đời, Ta là một trong số những người ấy.’”
Ye ca pana loke sukhaṃ senti, ahaṃ tesaṃ aññataro’”ti.

“Vậy nay, này Hoàng Tử, ở đây ta sẽ hỏi Hoàng Tử, nếu có thể kham nhẫn, Hoàng Tử hãy trả lời.
“Tena hi, kumāra, taññevettha paṭipucchissāmi. Yathā te khameyya tathā naṃ byākareyyāsi.

Hoàng Tử nghĩ thế nào, này Hoàng Tử? Ở đây, người gia chủ hay con người gia chủ có nhà có nóc nhọn, với các tường trét trong trét ngoài, che chở khỏi gió, chốt cửa được khóa chặt, các cửa sổ được đóng kín.
Taṃ kiṃ maññasi, kumāra, idhassa gahapatissa vā gahapatiputtassa vā kūṭāgāraṃ ullittāvalittaṃ nivātaṃ phusitaggaḷaṃ pihitavātapānaṃ.

Trong ấy, có một chỗ nằm có trải tấm thảm len với lông dài, với tấm vải giường bằng len trắng, chăn len thêu bông, nệm bằng da quý con sơn dương kadali, tấm thảm có tàn che phía trên và gối nệm đỏ cả hai đầu.
Tatrassa pallaṅko gonakatthato paṭikatthato paṭalikatthato kadali­miga­pavara­pa­c­ca­t­tharaṇo sauttaracchado ubhato lohitakūpadhāno;

Có đèn thắp đỏ;
telappadīpo cettha jhāyeyya;

Và bốn bà vợ đẹp hầu hạ.
catasso ca pajāpatiyo manāpāmanāpena paccupaṭṭhitā assu.

Này Hoàng Tử, Hoàng Tử nghĩ thế nào, người ấy nằm ngủ có an lạc không?
Taṃ kiṃ maññasi, kumāra, sukhaṃ vā so sayeyya no vā?

Hay Hoàng Tử nghĩ thế nào?”
Kathaṃ vā te ettha hotī”ti?

“Bạch Thế Tôn, người ấy nằm ngủ an lạc.
“Sukhaṃ so, bhante, sayeyya.

Nếu có những người cảm thấy an lạc ở đời, người ấy là một trong những người ấy.”
Ye ca pana loke sukhaṃ senti, so tesaṃ aññataro”ti.

“Hoàng Tử nghĩ thế nào?
“Taṃ kiṃ maññasi, kumāra,

“Này Hoàng tử, với người gia chủ hay người con của người gia chủ ấy, khởi lên những nhiệt não về thân hay về tâm, do tham ái sanh. Bị nung đốt bởi những nhiệt não do tham ái sanh, người ấy có cảm thấy đau khổ không?”
api nu tassa gahapatissa vā gahapatiputtassa vā uppajjeyyuṃ rāgajā pariḷāhā kāyikā vā cetasikā vā yehi so rāgajehi pariḷāhehi pariḍayhamāno dukkhaṃ sayeyyā”ti?

“Thưa có, bạch Thế Tôn.”
“Evaṃ, bhante”ti.

“Người gia chủ hay con của người gia chủ ấy, này Hoàng Tử, bị nung đốt bởi những nhiệt não do tham ái sanh, cảm thấy đau khổ. Tham ái ấy, Như Lai đã đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai.
“Yehi kho so, kumāra, gahapati vā gahapatiputto vā rāgajehi pariḷāhehi pariḍayhamāno dukkhaṃ sayeyya, so rāgo tathāgatassa pahīno ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvaṅkato āyatiṃ anuppādadhammo.

Do vậy ta cảm thấy an lạc.
Tasmāhaṃ sukhamasayitthaṃ.

Hoàng Tử nghĩ thế nào?
Taṃ kiṃ maññasi, kumāra,

Này Hoàng Tử, với người gia chủ hay con của người gia chủ ấy, khởi lên những nhiệt não về thân hay tâm do sân sanh …
api nu tassa gahapatissa vā gahapatiputtassa vā uppajjeyyuṃ dosajā pariḷāhā ...pe...

hay do si sanh. Bị nung đốt bởi những nhiệt não do si sanh, người ấy có cảm thấy đau khổ không?”
mohajā pariḷāhā kāyikā vā cetasikā vā yehi so mohajehi pariḷāhehi pariḍayhamāno dukkhaṃ sayeyyā”ti?

“Thưa có, bạch Thế Tôn.”
“Evaṃ, bhante”ti.

“Người gia chủ hay con của người gia chủ ấy, này Hoàng Tử, bị nung đốt bởi những nhiệt não do si sanh, cảm thấy đau khổ. Si ấy, Như Lai đã đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Do vậy ta cảm thấy an lạc.
“Ye hi kho so, kumāra, gahapati vā gahapatiputto vā mohajehi pariḷāhehi pariḍayhamāno dukkhaṃ sayeyya, so moho tathāgatassa pahīno ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvaṅkato āyatiṃ anuppādadhammo. Tasmāhaṃ sukhamasayitthanti.

Luôn luôn được an lạc,
Sabbadā ve sukhaṃ seti,
Vị phạm chí tịch tịnh.
brāhmaṇo parinibbuto;
Không bị dục uế nhiễm,
Yo na limpati kāmesu,
Trong mát, không sanh y,
sītibhūto nirūpadhi.
Mọi tham trước dứt đoạn,
Sabbā āsattiyo chetvā,
Nhiếp phục tâm sầu khổ,
vineyya hadaye daraṃ;
An tịnh, cảm thọ lạc,
Upasanto sukhaṃ seti,
Với tâm đạt an tịnh.”
santiṃ pappuyya cetaso”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt