Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 3.51

Tăng Chi Bộ 3.51
Aṅguttara Nikāya 3.51

6. Phẩm Bà-La-Môn
6. Brāhmaṇavagga

(a) Hai Người
Paṭhamadvebrāhmaṇasutta

Có hai vị Bà-la-môn già yếu, trưởng lão, tuổi lớn, cuộc đời đã được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời, đã 120 tuổi, đi đến Thế Tôn, đảnh lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu.
Atha kho dve brāhmaṇā jiṇṇā vuddhā mahallakā addhagatā vayoanuppattā vīsavassasatikā jātiyā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodiṃsu.

Sau khi đảnh lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Những Bà-la-môn ấy bạch Thế Tôn:
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te brāhmaṇā bhagavantaṃ etadavocuṃ:

“Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi là những Bà-la-môn già yếu, trưởng lão, tuổi lớn, cuộc đời đã được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời, đã 120 tuổi.
“mayamassu, bho gotama, brāhmaṇā jiṇṇā vuddhā mahallakā addhagatā vayoanuppattā vīsavassasatikā jātiyā;

Nhưng chúng tôi không làm điều lành, không làm điều thiện, không làm những điều để chấm dứt các sợ hãi.
te camhā akatakalyāṇā akatakusalā akatabhīruttāṇā.

Tôn giả Gotama hãy răn dạy chúng tôi, Tôn giả Gotama hãy giảng dạy chúng tôi. Nhờ vậy, chúng tôi sẽ được hạnh phúc, an lạc lâu dài.”
Ovadatu no bhavaṃ gotamo, anusāsatu no bhavaṃ gotamo yaṃ amhākaṃ assa dīgharattaṃ hitāya sukhāyā”ti.

“Thật vậy, các ông là những Bà-la-môn già yếu, trưởng lão, tuổi lớn, cuộc đời đã được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời, đã 120 tuổi.
“Taggha tumhe, brāhmaṇā, jiṇṇā vuddhā mahallakā addhagatā vayoanuppattā vīsavassasatikā jātiyā;

Nhưng các Ông không làm điều lành, không làm điều thiện, không làm những điều để chấm dứt các sợ hãi.
te cattha akatakalyāṇā akatakusalā akatabhīruttāṇā.

Thật vậy, này các Bà-la-môn, thế giới này đã bị già, bệnh, chết dắt dẫn.
Upanīyati kho ayaṃ, brāhmaṇā, loko jarāya byādhinā maraṇena.

Thế giới đã bị già, bệnh, chết dắt dẫn như vậy, này các Bà-la-môn, thời chế ngự thân, chế ngự lời nói, chế ngự ý trong đời này, đối với kẻ đã đi đến cõi chết, phải là chỗ nương tựa, là hang trú ẩn, là hòn cù lao (hay ngọn đèn), là chỗ quy y và là đích xứ nó đến.
Evaṃ upanīyamāne kho, brāhmaṇā, loke jarāya byādhinā maraṇena, yo idha kāyena saṃyamo vācāya saṃyamo manasā saṃyamo, taṃ tassa petassa tāṇañca leṇañca dīpañca saraṇañca parāyaṇañcāti.

Ðời sống bị dắt dẫn,
Mạng sống chẳng là bao,
Upanīyati jīvitamappamāyu,
Bị già kéo dẫn đi,
Không có nơi nương tựa,
Jarūpanītassa na santi tāṇā;
Hãy luôn luôn quán tưởng,
Sợ hãi tử vong này,
Etaṃ bhayaṃ maraṇe pekkhamāno,
Hãy làm các công đức,
Ðưa đến chơn an lạc.
Puññāni kayirātha sukhāvahāni.
Ở đây chế ngự thân,—
Yodha kāyena saṃyamo,
Chế ngự lời và ý,
Vācāya uda cetasā;
Kẻ ấy dầu có chết,
Cũng được hưởng an lạc,
Taṃ tassa petassa sukhāya hoti,
Vì khi còn đang sống,
Ðã làm các công đức.”
Yaṃ jīvamāno pakaroti puññan”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt