Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 4.186

Tăng Chi Bộ 4.186
Aṅguttara Nikāya 4.186

19. Phẩm Chiến Sĩ
19. Brāhmaṇavagga

Con Ðường Sai Lạc
Ummaggasutta

Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
Atha kho aññataro bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, thế giới do cái gì hướng dẫn, thế giới do cái gì được diễn tiến, đi đến sự thuần phục của cái gì được khởi lên?”
“kena nu kho, bhante, loko nīyati, kena loko parikassati, kassa ca uppannassa vasaṃ gacchatī”ti?

“Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo!
“Sādhu sādhu, bhikkhu.

Hiền thiện là con đường Thầy đặt vấn đề, hiền thiện là sự biện tài, hiền thiện là câu hỏi!
Bhaddako kho te, bhikkhu, ummaggo, bhaddakaṃ paṭibhānaṃ, kalyāṇī paripucchā.

Này Tỷ-kheo, có phải Thầy hỏi như sau: “Bạch Thế Tôn, thế giới do cái gì hướng dẫn, thế giới do cái gì được diễn tiến, đi đến sự thuần phục của cái gì được khởi lên?”
Evañhi tvaṃ, bhikkhu, pucchasi: ‘kena nu kho, bhante, loko nīyati, kena loko parikassati, kassa ca uppannassa vasaṃ gacchatī’”ti?

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”
“Evaṃ, bhante”.

“Này Tỷ-kheo, thế giới do tâm hướng dẫn. Thế giới do tâm được diễn tiến. Đi đến sự thuần phục của tâm được khởi lên.”
“Cittena kho, bhikkhu, loko nīyati, cittena parikassati, cittassa uppannassa vasaṃ gacchatī”ti.

“Lành thay, bạch Thế Tôn”. Tỷ-kheo ấy sau khi hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy, lại hỏi Thế Tôn một câu khác:
“Sādhu, bhante”ti kho so bhikkhu bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā bhagavantaṃ uttari pañhaṃ apucchi:

“Bậc nghe nhiều, trì pháp. Bậc nghe nhiều, trì pháp, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là một bậc nghe nhiều, trì pháp?
“‘bahussuto dhammadharo, bahussuto dhammadharo’ti, bhante, vuccati. Kittāvatā nu kho, bhante, bahussuto dhammadharo hotī”ti?

“Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Hiền thiện là con đường Thầy đặt vấn đề, hiền thiện là sự biện tài, hiền thiện là câu hỏi!
“Sādhu sādhu, bhikkhu. Bhaddako kho te, bhikkhu ummaggo, bhaddakaṃ paṭibhānaṃ, kalyāṇī paripucchā.

Này Tỷ-kheo, có phải Thầy hỏi như sau: “Bậc nghe nhiều, trì pháp. Bậc nghe nhiều, trì pháp, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là một bậc nghe nhiều, trì pháp?”
Evañhi tvaṃ, bhikkhu, pucchasi: ‘bahussuto dhammadharo, bahussuto dhammadharoti, bhante, vuccati. Kittāvatā nu kho, bhante, bahussuto dhammadharo hotī’”ti?

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”
“Evaṃ, bhante”.

Nhiều, này Tỷ-kheo, là pháp ta thuyết giảng: Kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị thuyết, Bổn sanh, Vị tằng hữu, Phương quảng.
“Bahū kho, bhikkhu, mayā dhammā desitā—suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthā, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhutadhammaṃ, vedallaṃ.

Này Tỷ-kheo, nếu ai hiểu nghĩa một bài kệ có bốn câu, hiểu pháp và thực hành pháp tùy pháp, người ấy được gọi là vị nghe nhiều, trì pháp.
Catuppadāya cepi, bhikkhu, gāthāya atthamaññāya dhammamaññāya dhammānudhammappaṭipanno hoti bahussuto dhammadharoti alaṃvacanāyā”ti.

“Lành thay, bạch Thế Tôn”. Tỷ-kheo ấy sau khi hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy, lại hỏi Thế Tôn một câu khác:
“Sādhu, bhante”ti kho so bhikkhu bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā bhagavantaṃ uttari pañhaṃ apucchi:

“Bậc có nghe với trí tuệ thể nhập (quyết trạch), bậc có nghe với trí tuệ thể nhập, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến khi nào, bạch Thế Tôn, được gọi là bậc có nghe với trí tuệ thể nhập?
“‘sutavā nibbedhikapañño, sutavā nibbedhikapañño’ti, bhante, vuccati. Kittāvatā nu kho, bhante, sutavā nibbedhikapañño hotī”ti?

“Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Hiền thiện là con đường Thầy đặt vấn đề, hiền thiện là sự biện tài, hiền thiện là câu hỏi!
“Sādhu sādhu, bhikkhu. Bhaddako kho te, bhikkhu, ummaggo, bhaddakaṃ paṭibhānaṃ, kalyāṇī paripucchā.

Này Tỷ-kheo, có phải Thầy hỏi như sau: “Bậc có nghe với trí tuệ thể nhập (quyết trạch), bậc có nghe với trí tuệ thể nhập, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến khi nào, bạch Thế Tôn, được gọi là bậc có nghe với trí tuệ thể nhập?”
Evañhi tvaṃ, bhikkhu, pucchasi: ‘sutavā nibbedhikapañño, sutavā nibbedhikapaññoti, bhante, vuccati. Kittāvatā nu kho, bhante, sutavā nibbedhikapañño hotī’”ti?

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn”.
“Evaṃ, bhante”.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được nghe: “Ðây là khổ”, thể nhập và thấy ý ấy nghĩa với trí tuệ.
“Idha, bhikkhu, bhikkhuno ‘idaṃ dukkhan’ti sutaṃ hoti, paññāya cassa atthaṃ ativijjha passati;

Ðược nghe: “Ðây là khổ tập”, thể nhập và thấy ý nghĩa ấy với trí tuệ.
‘ayaṃ dukkhasamudayo’ti sutaṃ hoti, paññāya cassa atthaṃ ativijjha passati;

Ðược nghe: “Ðây là khổ diệt”, thể nhập và thấy ý nghĩa ấy với trí tuệ.
‘ayaṃ dukkhanirodho’ti sutaṃ hoti, paññāya cassa atthaṃ ativijjha passati;

Ðược nghe: “Ðây là con đường đưa đến khổ diệt”, thể nhập và thấy ý nghĩa với trí tuệ.
‘ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā’ti sutaṃ hoti, paññāya cassa atthaṃ ativijjha passati.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vị có nghe với trí tuệ thể nhập.”
Evaṃ kho, bhikkhu, sutavā nibbedhikapañño hotī”ti.

“Lành thay, bạch Thế Tôn”. Tỷ-kheo ấy sau khi hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy, lại hỏi Thế Tôn một câu khác:
“Sādhu, bhante”ti kho so bhikkhu bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā bhagavantaṃ uttari pañhaṃ apucchi:

“Bậc Hiền trí, Ðại tuệ. Bậc Hiền trí, Ðại tuệ, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào bạch Thế Tôn, được gọi là Bậc Hiền trí, Ðại tuệ?
“‘paṇḍito mahāpañño, paṇḍito mahāpañño’ti, bhante, vuccati. Kittāvatā nu kho, bhante, paṇḍito mahāpañño hotī”ti?

“Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Hiền thiện là con đường Thầy đặt vấn đề, hiền thiện là sự biện tài, hiền thiện là câu hỏi!
“Sādhu sādhu, bhikkhu. Bhaddako kho te, bhikkhu, ummaggo, bhaddakaṃ paṭibhānaṃ, kalyāṇī paripucchā.

Này Tỷ-kheo, có phải Thầy hỏi như sau: “Bậc Hiền trí, Ðại tuệ. Bậc Hiền trí, Ðại tuệ, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào bạch Thế Tôn, được gọi là Bậc Hiền trí, Ðại tuệ?”
Evañhi tvaṃ bhikkhu pucchasi: ‘paṇḍito mahāpañño, paṇḍito mahāpaññoti, bhante, vuccati. Kittāvatā nu kho, bhante, paṇḍito mahāpañño hotī’”ti?

Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
“Evaṃ, bhante”.

Ở đây, này Tỷ-kheo, Bậc Hiền trí, Ðại tuệ, không có nghĩ tự làm hại mình, không có nghĩ tự làm hại người, không có nghĩ tự mình làm hại cả hai, có suy nghĩ điều gì thời suy nghĩ lợi mình, lợi người, lợi cả hai, lợi toàn thể thế giới.
“Idha, bhikkhu, paṇḍito mahāpañño nevattabyābādhāya ceteti na parabyābādhāya ceteti na ubhayabyābādhāya ceteti attahitaparahitaubhayahitasabbalokahitameva cintayamāno cinteti.

Như vậy, này Tỷ-kheo, là Bậc Hiền trí, Ðại tuệ.”
Evaṃ kho, bhikkhu, paṇḍito mahāpañño hotī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt