Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 4.36

Tăng Chi Bộ 4.36
Aṅguttara Nikāya 4.36

4. Phẩm Bánh Xe
4. Cakkavagga

Tùy Thuộc Thế Giới
Doṇasutta

Một thời, Thế Tôn đang đi trên con đường giữa Ukkaṭṭhā và Setavyā.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā antarā ca ukkaṭṭhaṃ antarā ca setabyaṃ addhānamaggappaṭipanno hoti.

Bà-la-môn Doṇa cũng đang đi trên con đường giữa Ukkaṭṭhā và Setavyā.
Doṇopi sudaṃ brāhmaṇo antarā ca ukkaṭṭhaṃ antarā ca setabyaṃ addhānamaggappaṭipanno hoti.

Bà-la-môn Doṇa thấy trên những dấu chân của Thế Tôn có dấu bánh xe một ngàn cọng, với vành xe, trục xe và đầy đủ tất cả các tướng khác.
Addasā kho doṇo brāhmaṇo bhagavato pādesu cakkāni sahassārāni sanemikāni sanābhikāni sabbākāraparipūrāni;

Thấy vậy, vị ấy suy nghĩ như sau: “Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay! Những dấu chân này không phải là của loài Người!”.
disvānassa etadahosi: “acchariyaṃ vata bho, abbhutaṃ vata bho. Na vatimāni manussabhūtassa padāni bhavissantī”ti.

Rồi Thế Tôn từ trên đường bước xuống, đến ngồi dưới một gốc cây, ngồi kiết-già, thân thẳng, đặt niệm trước mặt.
Atha kho bhagavā maggā okkamma aññatarasmiṃ rukkhamūle nisīdi pallaṅkaṃ ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā.

Bà-la-môn Doṇa theo dấu chân của Thế Tôn, thấy Thế Tôn đang ngồi dưới một gốc cây đẹp đẽ, khởi lên tịnh tín, các căn tịch tịnh, tâm ý tịch tịnh, đạt được tịnh chỉ do điều phục tối thượng, giống như một con voi được điều phục, được phòng hộ với căn tịch tịnh.
Atha kho doṇo brāhmaṇo bhagavato padāni anugacchanto addasa bhagavantaṃ aññatarasmiṃ rukkhamūle nisinnaṃ pāsādikaṃ pasādanīyaṃ santindriyaṃ santamānasaṃ uttamadamathasamathamanuppattaṃ dantaṃ guttaṃ saṃyatindriyaṃ nāgaṃ.

Thấy vậy Bà-la-môn Doṇa liền đi đến Thế Tôn; sau khi đến, thưa với Thế Tôn:
Disvāna yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavoca:

“Có phải thưa Tôn giả, Ngài là vị chư thiên?”
“Devo no bhavaṃ bhavissatī”ti?

“Hỡi này Bà-la-môn, Ta không phải Chư Thiên.”
“Na kho ahaṃ, brāhmaṇa, devo bhavissāmī”ti.

“Có phải thưa Tôn giả, Ngài là Càn-thát-bà?”
“Gandhabbo no bhavaṃ bhavissatī”ti?

“Hỡi này Bà-la-môn, Ta không là Càn-thát-bà.”
“Na kho ahaṃ, brāhmaṇa, gandhabbo bhavissāmī”ti.

“Có phải thưa Tôn giả, Ngài là Dạ-xoa?”
“Yakkho no bhavaṃ bhavissatī”ti?

“Hỡi này Bà-la-môn, Ta không là Dạ-xoa.”
“Na kho ahaṃ, brāhmaṇa, yakkho bhavissāmī”ti.

“Có phải thưa Tôn giả, Ngài là loài Người?”
“Manusso no bhavaṃ bhavissatī”ti?

“Hỡi này Bà-la-môn, Ta không là Người.”
“Na kho ahaṃ, brāhmaṇa, manusso bhavissāmī”ti.

Hỏi “Ngài có phải là tiên không?”, Ngài trả lời: “Này Bà-la-môn, Ta không phải là tiên”.
“‘Devo no bhavaṃ bhavissatī’ti, iti puṭṭho samāno: ‘na kho ahaṃ, brāhmaṇa, devo bhavissāmī’ti vadesi.

Hỏi “Ngài có phải là Càn-thát-bà không?”, Ngài trả lời: “Này Bà-la-môn, Ta không phải là Càn-thát-bà”.
‘Gandhabbo no bhavaṃ bhavissatī’ti, iti puṭṭho samāno: ‘na kho ahaṃ, brāhmaṇa, gandhabbo bhavissāmī’ti vadesi.

Hỏi “Ngài có phải là Dạ-xoa không?” Ngài trả lời: “Này Bà-la-môn, Ta không phải là Dạ-xoa”.
‘Yakkho no bhavaṃ bhavissatī’ti, iti puṭṭho samāno: ‘na kho ahaṃ, brāhmaṇa, yakkho bhavissāmī’ti vadesi.

Hỏi “Ngài có phải là loài Người không?”, Ngài trả lời: “Ta không phải là loài Người”.
‘Manusso no bhavaṃ bhavissatī’ti, iti puṭṭho samāno: ‘na kho ahaṃ, brāhmaṇa, manusso bhavissāmī’ti vadesi.

Vậy sở hành của Ngài là gì và Tôn giả là gì?”
Atha ko carahi bhavaṃ bhavissatī”ti?

“Này Bà-la-môn, đối với những người chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ta có thể là chư Thiên, với các lậu hoặc đã đoạn tận, được chặt đứt từ gốc rễ, được làm thành như thân cây ta-la, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai.
“Yesaṃ kho ahaṃ, brāhmaṇa, āsavānaṃ appahīnattā devo bhaveyyaṃ, te me āsavā pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṃ anuppādadhammā.

Này Bà-la-môn, đối với những người chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ta có thể là Càn-thát-bà, Ta có thể là Dạ-xoa, Ta có thể là Người, với các lậu hoặc đã đoạn tận, được chặt dứt từ gốc rễ, được làm thành như thân cây ta-la, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai.
Yesaṃ kho ahaṃ, brāhmaṇa, āsavānaṃ appahīnattā gandhabbo bhaveyyaṃ … yakkho bhaveyyaṃ … manusso bhaveyyaṃ, te me āsavā pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṃ anuppādadhammā.

Ví như, này Bà-la-môn, bông sen xanh, hay bông sen hồng, hay bông sen trắng, sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, vươn lên khỏi nước, và đứng thẳng không bị nước thấm ướt.
Seyyathāpi, brāhmaṇa, uppalaṃ vā padumaṃ vā puṇḍarīkaṃ vā udake jātaṃ udake saṃvaḍḍhaṃ udakā accuggamma tiṭṭhati anupalittaṃ udakena;

Cũng vậy, này Bà-la-môn sanh ta trong đời, lớn lên trong đời, Ta sống chinh phục đời, không bị đời thấm ướt.
evamevaṃ kho ahaṃ, brāhmaṇa, loke jāto loke saṃvaḍḍho lokaṃ abhibhuyya viharāmi anupalitto lokena.

Này Bà-la-môn, Ta là Phật, hãy như vậy thọ trì.
Buddhoti maṃ, brāhmaṇa, dhārehīti.

Với lậu hoặc chưa đoạn,
Ta có thể là tiên,
Có thể Càn-thát-bà,
Có thể là loài chim
Hay đi đến Dạ-xoa,
Hay vào trong thai người,
Với Ta lậu hoặc tận,
Bị phá hủy, trừ khử.
Yena devūpapatyassa,
gandhabbo vā vihaṅgamo;
Yakkhattaṃ yena gaccheyyaṃ,
manussattañca abbaje;
Te mayhaṃ āsavā khīṇā,
viddhastā vinaḷīkatā.

Như sen trắng tươi đẹp
Không bị nước thấm ướt,
Ðời không thấm ướt Ta,
Do vậy Ta được gọi,
Ta là Phật Chánh giác,
Hỡi này Bà-la-môn.
Puṇḍarīkaṃ yathā vaggu,
Toyena nupalippati;
Nupalippāmi lokena,
Tasmā buddhosmi brāhmaṇā”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt