Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 4.40

Tăng Chi Bộ 4.40
Aṅguttara Nikāya 4.40

4. Phẩm Bánh Xe
4. Cakkavagga

Udayi
Udāyīsutta

Rồi Bà-la-môn Udāyī đi đến Thế Tôn; sau khi đến… Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Udāyī bạch Thế Tôn:
Atha kho udāyī brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā ...pe... ekamantaṃ nisinno kho udāyī brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca:

“Có phải Tôn giả Gotama không tán thán tế đàn?”
“bhavampi no gotamo yaññaṃ vaṇṇetī”ti?

“Này Bà-la-môn, Ta không tán thán tất cả tế đàn. Nhưng này Bà-la-môn, Ta không phải không tán thán tất cả loại tế đàn.
“Na kho ahaṃ, brāhmaṇa, sabbaṃ yaññaṃ vaṇṇemi; na panāhaṃ, brāhmaṇa, sabbaṃ yaññaṃ na vaṇṇemi.

Trong loại tế đàn nào, này Bà-la-môn, bò bị giết, dê cừu bị giết, gà heo bị giết, các loài sinh vật khác đi đến bị giết hại, loại tế đàn ấy; Này Bà-la-môn, liên hệ đến sát sanh, Ta không tán thán loại tế đàn ấy. Vì cớ sao?
Yathārūpe kho, brāhmaṇa, yaññe gāvo haññanti, ajeḷakā haññanti, kukkuṭasūkarā haññanti, vividhā pāṇā saṅghātaṃ āpajjanti; evarūpaṃ kho ahaṃ, brāhmaṇa, sārambhaṃ yaññaṃ na vaṇṇemi. Taṃ kissa hetu?

Tế đàn có sát sanh như vậy, này Bà-la-môn, các A-la-hán, và những ai đã đi trên con đường hướng đến A-la-hán không có đi đến.
Evarūpañhi, brāhmaṇa, sārambhaṃ yaññaṃ na upasaṅkamanti arahanto vā arahattamaggaṃ vā samāpannā.

Tại tế đàn nào, này Bà-la-môn, trong ấy không có bò bị giết, không có dê cừu bị giết, không có gia cầm, heo bị giết, không có các sinh vật khác bị giết; Này Bà-la-môn, ta tán thán tế đàn không có sát sanh như vậy, tức là bố thí thường làm từ lâu, tế đàn cầu hạnh phúc cho gia đình. Vì cớ sao?
Yathārūpe ca kho, brāhmaṇa, yaññe neva gāvo haññanti, na ajeḷakā haññanti, na kukkuṭasūkarā haññanti, na vividhā pāṇā saṅghātaṃ āpajjanti; evarūpaṃ kho ahaṃ, brāhmaṇa, nirārambhaṃ yaññaṃ vaṇṇemi, yadidaṃ niccadānaṃ anukulayaññaṃ. Taṃ kissa hetu?

Tế đàn không có sát sanh như vậy, này Bà-la-môn, các A-la-hán và những ai đã đi trên con đường hướng đến A-la-hán có đi đến.
Evarūpañhi, brāhmaṇa, nirārambhaṃ yaññaṃ upasaṅkamanti arahanto vā arahattamaggaṃ vā samāpannāti.

Tế đàn không sát sanh,
Làm đúng thời thích hợp,
Tế đàn vậy, các bậc,
Phạm hạnh khéo chế ngự.
Abhisaṅkhataṃ nirārambhaṃ,
yaññaṃ kālena kappiyaṃ;
Tādisaṃ upasaṃyanti,
saññatā brahmacārayo.

Ðã vén rộng bức màn,
Khi còn ở trên đời,
Các bậc vượt thời gian,
Ði đến tế đàn ấy.
Bậc Giác ngộ thiện xảo,
Tán thán tế đàn ấy.
Vivaṭacchadā ye loke,
vītivattā kulaṃ gatiṃ;
Yaññametaṃ pasaṃsanti,
buddhā yaññassa kovidā.

Hoặc tại lễ tế đàn,
Hoặc tín thí vong linh,
Tế vật cúng xứng đáng,
Tế lễ tâm hoan hỷ,
Hướng đến ruộng phước lành,
Ðối các vị Phạm hạnh.
Yaññe vā yadi vā saddhe,
habyaṃ katvā yathārahaṃ;
Pasannacitto yajati,
sukhette brahmacārisu.

Khéo cúng, khéo tế lễ,
Khéo dâng bậc đáng cúng,
Tế đàn vậy rộng lớn,
Chư Thiên đều tán thán.
Suhutaṃ suyiṭṭhaṃ suppattaṃ,
Dakkhiṇeyyesu yaṃ kataṃ;
Yañño ca vipulo hoti,
Pasīdanti ca devatā.

Bậc Trí sau khi lễ,
Tín thành tâm giải thoát.
Giải thoát khỏi khổ đâu,
An lạc trên cõi đời.
Với mục đích như vậy,
Bậc trí hướng phía ấy.”
Evaṃ yajitvā medhāvī,
saddho muttena cetasā;
Abyābajjhaṃ sukhaṃ lokaṃ,
paṇḍito upapajjatī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt