Tăng Chi Bộ 5.103
Aṅguttara Nikāya 5.103
11. Phẩm An Ổn Trú
11. Phāsuvihāravagga
Kẻ Ăn Trộm
Mahācorasutta
1. “Thành tựu năm chi phần, này các Tỷ-kheo, một kẻ ăn trộm lớn xâm nhập vào nhà cửa, mang đồ ăn trộm ra đi, thành người ăn trộm riêng rẽ, thành người cướp chận đường. Thế nào là năm?
“Pañcahi, bhikkhave, aṅgehi samannāgato mahācoro sandhimpi chindati, nillopampi harati, ekāgārikampi karoti, paripanthepi tiṭṭhati. Katamehi pañcahi?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn dựa vào sự hiểm trở (của con đường), dựa vào sự rậm rạp (của núi rừng), dựa vào quyền thế, là kẻ hối lộ, là kẻ ăn trộm một mình.
Idha, bhikkhave, mahācoro visamanissito ca hoti, gahananissito ca, balavanissito ca, bhogacāgī ca, ekacārī ca.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kẻ ăn trộm lớn dựa vào sự hiểm trở?
Kathañca, bhikkhave, mahācoro visamanissito hoti?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn dựa vào các con sông khó lội qua hay núi non hiểm trở.
Idha, bhikkhave, mahācoro nadīviduggaṃ vā nissito hoti pabbatavisamaṃ vā.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là kẻ ăn trộm lớn dựa vào sự hiểm trở.
Evaṃ kho, bhikkhave, mahācoro visamanissito hoti.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kẻ ăn trộm lớn dựa vào sự rậm rạp?
Kathañca, bhikkhave, mahācoro gahananissito hoti?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn dựa vào sự rậm rạp của cỏ, cây, bụi cây và của rừng rậm hoang vu.
Idha, bhikkhave, mahācoro tiṇagahanaṃ vā nissito hoti rukkhagahanaṃ vā rodhaṃ vā mahāvanasaṇḍaṃ vā.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là kẻ ăn trộm lớn dựa vào sự rậm rạp.
Evaṃ kho, bhikkhave, mahācoro gahananissito hoti.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kẻ ăn trộm lớn dựa vào uy lực?
Kathañca, bhikkhave, mahācoro balavanissito hoti?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn dựa vào vua hay các vị đại thần của vua. Anh ta suy nghĩ như sau:
Idha, bhikkhave, mahācoro rājānaṃ vā rājamahāmattānaṃ vā nissito hoti. Tassa evaṃ hoti:
‘Nếu có ai nói điều gì về ta, các vị vua này hay các vị đại thần của vua sẽ nói những lời che chở cho ta.’
‘sace maṃ koci kiñci vakkhati, ime me rājāno vā rājamahāmattā vā pariyodhāya atthaṃ bhaṇissantī’ti.
Nếu có ai nói điều gì về anh ta, các vua và các vị đại thần ấy nói che chở cho anh ta.
Sace naṃ koci kiñci āha, tyassa rājāno vā rājamahāmattā vā pariyodhāya atthaṃ bhaṇanti.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn dựa vào uy lực.
Evaṃ kho, bhikkhave, mahācoro balavanissito hoti.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kẻ ăn trộm lớn dựa vào hối lộ tài sản?
Kathañca, bhikkhave, mahācoro bhogacāgī hoti?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn giàu có, có tiền của nhiều, có tài sản lớn. Anh ta nghĩ như sau:
Idha, bhikkhave, mahācoro aḍḍho hoti mahaddhano mahābhogo. Tassa evaṃ hoti:
‘Nếu có ai nói gì đến ta, từ nay ta sẽ hối lộ người ấy với tài sản.’
‘sace maṃ koci kiñci vakkhati, ito bhogena paṭisantharissāmī’ti.
Nếu có người nói gì đến anh ta, anh ta liền hối lộ với tài sản.
Sace naṃ koci kiñci āha, tato bhogena paṭisantharati.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn hối lộ với tài sản.
Evaṃ kho, bhikkhave, mahācoro bhogacāgī hoti.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kẻ ăn trộm lớn là kẻ ăn trộm riêng rẽ?
Kathañca, bhikkhave, mahācoro ekacārī hoti?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có kẻ ăn trộm lớn đoạt các tài vật một mình. Vì cớ sao?
Idha, bhikkhave, mahācoro ekakova gahaṇāni kattā hoti. Taṃ kissa hetu?
Anh ta suy nghĩ: “Mong rằng không ai bàn bạc chỗ trốn với ta rồi làm ta rối loạn”.
‘Mā me guyhamantā bahiddhā sambhedaṃ agamaṃsū’ti.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn thành kẻ ăn trộm riêng rẽ.
Evaṃ kho, bhikkhave, mahācoro ekacārī hoti.
Thành tựu năm chi phần này, kẻ ăn trộm lớn xâm nhập vào nhà cửa, mang đồ ăn trộm ra đi, thành người ăn trộm riêng rẽ, thành người cướp chận đường.
Imehi kho, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgato mahācoro sandhimpi chindati nillopampi harati ekāgārikampi karoti paripanthepi tiṭṭhati.
8. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu năm pháp, kẻ ác Tỷ-kheo tự mình xử sự như kẻ mất gốc, bị tổn thương, có tội lỗi, bị những bậc trí quở trách, và làm nhiều điều vô phước. Thế nào là năm?
Evamevaṃ kho, bhikkhave, pañcahi dhammehi samannāgato pāpabhikkhu khataṃ upahataṃ attānaṃ pariharati, sāvajjo ca hoti sānuvajjo viññūnaṃ, bahuñca apuññaṃ pasavati. Katamehi pañcahi?
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo dựa vào hiểm trở, dựa vào rậm rạp, dựa vào uy lực, hối lộ tài sản và hành động một mình.
Idha, bhikkhave, pāpabhikkhu visamanissito ca hoti, gahananissito ca, balavanissito ca, bhogacāgī ca, ekacārī ca.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo dựa vào hiểm trở?
Kathañca, bhikkhave, pāpabhikkhu visamanissito hoti?
10. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo thành tựu thân nghiệp hiểm nạn, thành tựu ngữ nghiệp hiểm nạn, thành tựu ý nghiệp hiểm nạn.
Idha, bhikkhave, pāpabhikkhu visamena kāyakammena samannāgato hoti, visamena vacīkammena samannāgato hoti, visamena manokammena samannāgato hoti.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo dựa vào hiểm nạn.
Evaṃ kho, bhikkhave, pāpabhikkhu visamanissito hoti.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo dựa vào rừng rậm?
Kathañca, bhikkhave, pāpabhikkhu gahananissito hoti?
11. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo có tà kiến và thành tựu tri kiến cực đoan.
Idha, bhikkhave, pāpabhikkhu micchādiṭṭhiko hoti antaggāhikāya diṭṭhiyā samannāgato.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là ác Tỷ-kheo dựa vào rừng rậm.
Evaṃ kho, bhikkhave, pāpabhikkhu gahananissito hoti.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo dựa vào uy lực?
Kathañca, bhikkhave, pāpabhikkhu balavanissito hoti?
12. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo dựa vào vua và các vị đại thần của vua. Vị ấy suy nghĩ:
Idha, bhikkhave, pāpabhikkhu rājānaṃ vā rājamahāmattānaṃ vā nissito hoti. Tassa evaṃ hoti:
‘Nếu có ai nói gì về ta, các vua ấy và các đại thần ấy nói lời với mục đích che chở cho ta.’
‘sace maṃ koci kiñci vakkhati, ime me rājāno vā rājamahāmattā vā pariyodhāya atthaṃ bhaṇissantī’ti.
Nếu có ai nói gì về vị ấy, các vua chúa hay các vị đại thần của vua nói lời với mục đích che chở.
Sace naṃ koci kiñci āha, tyassa rājāno vā rājamahāmattā vā pariyodhāya atthaṃ bhaṇanti.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo dựa vào uy lực.
Evaṃ kho, bhikkhave, pāpabhikkhu balavanissito hoti.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo hối lộ tài sản?
Kathañca, bhikkhave, pāpabhikkhu bhogacāgī hoti?
13. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo nhận được các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Vị ấy suy nghĩ như sau:
Idha, bhikkhave, pāpabhikkhu lābhī hoti cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārānaṃ. Tassa evaṃ hoti:
‘Nếu có ai nói gì về ta, ta sẽ hối lộ người ấy với vật dụng thâu được.’
‘sace maṃ koci kiñci vakkhati, ito lābhena paṭisantharissāmī’ti.
Và nếu có người nói gì về vị ấy, vị ấy hối lộ với vật dụng thâu được.
Sace naṃ koci kiñci āha, tato lābhena paṭisantharati.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo hối lộ với tài sản.
Evaṃ kho, bhikkhave, pāpabhikkhu bhogacāgī hoti.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo hành động một mình?
Kathañca, bhikkhave, pāpabhikkhu ekacārī hoti?
14. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo sống một mình tức là ở các địa phương biên địa.
Idha, bhikkhave, pāpabhikkhu ekakova paccantimesu janapadesu nivāsaṃ kappeti.
Tại đấy, vị ấy đến các gia đình và nhận được các lợi dưỡng.
So tattha kulāni upasaṅkamanto lābhaṃ labhati.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là ác Tỷ-kheo hành động một mình.
Evaṃ kho, bhikkhave, pāpabhikkhu ekacārī hoti.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo tự mình xử sự như người bị mất gốc, bị tổn thương, có phạm tội, bị các người trí quở trách, làm nhiều điều vô phước.”
Imehi kho, bhikkhave, pañcahi dhammehi samannāgato pāpabhikkhu khataṃ upahataṃ attānaṃ pariharati, sāvajjo ca hoti sānuvajjo viññūnaṃ, bahuñca apuññaṃ pasavatī”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt