Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 5.178

Tăng Chi Bộ 5.178
Aṅguttara Nikāya 5.178

18. Phẩm Nam Cư Sĩ
18. Upāsakavagga

Các Vua
Rājāsutta

“1. Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau không:
“Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu tumhehi diṭṭhaṃ vā sutaṃ vā:

Người này đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh. Rồi do nhân từ bỏ sát sanh, các vua bắt người ấy sát hại hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn?”
‘ayaṃ puriso pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā paṭiviratoti. Tamenaṃ rājāno gahetvā pāṇātipātā veramaṇihetu hananti vā bandhanti vā pabbājenti vā yathāpaccayaṃ vā karontī’”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“No hetaṃ, bhante”.

“Lành thay, này các Tỷ-kheo!
“Sādhu, bhikkhave.

Ta cũng không thấy, cũng không nghe như sau: Người này đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh.
Mayāpi kho etaṃ, bhikkhave, neva diṭṭhaṃ na sutaṃ: ‘ayaṃ puriso pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā paṭiviratoti.

“Rồi do nhân từ bỏ sát sanh, các vua bắt người ấy sát hại hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn”.
Tamenaṃ rājāno gahetvā pāṇātipātā veramaṇihetu hananti vā bandhanti vā pabbājenti vā yathāpaccayaṃ vā karontī’ti.

Nhưng nếu có người nói về ác nghiệp của người ấy như sau:
Api ca khvassa tatheva pāpakammaṃ pavedenti:

‘Người này sát hại sinh mạng của nữ nhân hay nam nhân.’
‘ayaṃ puriso itthiṃ vā purisaṃ vā jīvitā voropesīti.

Rồi các vua bắt người ấy, do nhân sát hại sinh mạng, sát hại hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn
Tamenaṃ rājāno gahetvā pāṇātipātahetu hananti vā bandhanti vā pabbājenti vā yathāpaccayaṃ vā karonti.

Các Thầy có thấy như vậy, hay nghe như vậy chăng?”
Api nu tumhehi evarūpaṃ diṭṭhaṃ vā sutaṃ vā’”ti?

“Bạch Thế Tôn, chúng con có thấy và nghe như vậy. Và sẽ được nghe như vậy nữa.”
“Diṭṭhañca no, bhante, sutañca suyyissati cā”ti.

“2. Này các Tỷ-kheo, các Thầy nghĩ thế nào, các Thầy có thấy hay có nghe như sau không:
“Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu tumhehi diṭṭhaṃ vā sutaṃ vā:

Người này đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho.
‘ayaṃ puriso adinnādānaṃ pahāya adinnādānā paṭiviratoti.

Rồi các vua bắt người ấy, do nhân từ bỏ lấy của không cho, sát hại hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn?”
Tamenaṃ rājāno gahetvā adinnādānā veramaṇihetu hananti vā bandhanti vā pabbājenti vā yathāpaccayaṃ vā karontī’”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“No hetaṃ bhante”.

“Lành thay, này các Tỷ-kheo!
“Sādhu, bhikkhave.

Ta cũng không thấy, cũng không nghe như sau:
Mayāpi kho etaṃ, bhikkhave, neva diṭṭhaṃ na sutaṃ:

Người này đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho. Rồi các vua bắt người ấy, do nhân từ bỏ lấy của không cho, sát hại hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn.
‘ayaṃ puriso adinnādānaṃ pahāya adinnādānā paṭiviratoti. Tamenaṃ rājāno gahetvā adinnādānā veramaṇihetu hananti vā bandhanti vā pabbājenti vā yathāpaccayaṃ vā karontī’ti.

Nhưng nếu có người nói về ác nghiệp của người ấy như sau:
Api ca khvassa tatheva pāpakammaṃ pavedenti:

‘gười này lấy của không cho gọi là ăn trộm, từ làng hay từ khu rừng.’
‘ayaṃ puriso gāmā vā araññā vā adinnaṃ theyyasaṅkhātaṃ ādiyīti.

Rồi các vua bắt người ấy, do duyên lấy của không cho, sát hại hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn.
Tamenaṃ rājāno gahetvā adinnādānahetu hananti vā bandhanti vā pabbājenti vā yathāpaccayaṃ vā karonti.

Các Thầy có thấy như vậy, hay nghe như vậy chăng?”
Api nu tumhehi evarūpaṃ diṭṭhaṃ vā sutaṃ vā’”ti?

“Bạch Thế Tôn, chúng con có thấy và có nghe như vậy. Và sẽ được nghe như vậy nữa.”
“Diṭṭhañca no, bhante, sutañca suyyissati cā”ti.

“3. Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau không
“Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu tumhehi diṭṭhaṃ vā sutaṃ vā:

Người này đoạn tận tà hạnh trong các dục, từ bỏ tà hạnh trong các dục.
‘ayaṃ puriso kāmesumicchācāraṃ pahāya kāmesumicchācārā paṭiviratoti.

Rồi các vua bắt người ấy, do nhân từ bỏ tà hạnh trong các dục, sát hại, hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn?”
Tamenaṃ rājāno gahetvā kāmesumicchācārā veramaṇihetu hananti vā bandhanti vā pabbājenti vā yathāpaccayaṃ vā karontī’”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“No hetaṃ, bhante”.

“Lành thay, này các Tỷ-kheo!
“Sādhu, bhikkhave.

Ta cũng không thấy, cũng không nghe như sau:
Mayāpi kho etaṃ, bhikkhave, neva diṭṭhaṃ na sutaṃ:

Người này đoạn tận tà hạnh trong các dục, từ bỏ tà hạnh trong các dục.
‘ayaṃ puriso kāmesumicchācāraṃ pahāya kāmesumicchācārā paṭiviratoti.

Rồi các vua bắt người ấy, do nhân từ bỏ tà hạnh trong các dục, sát hại hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn.
Tamenaṃ rājāno gahetvā kāmesumicchācārā veramaṇihetu hananti vā bandhanti vā pabbājenti vā yathāpaccayaṃ vā karontī’ti.

Nhưng nếu có người nói về ác nghiệp của người ấy như sau:
Api ca khvassa tatheva pāpakammaṃ pavedenti:

‘Người này có tà hạnh với những người đàn bà của người khác, với những thiếu nữ của người khác.’
‘ayaṃ puriso paritthīsu parakumārīsu cārittaṃ āpajjīti.

Rồi các vua bắt người ấy, do nhân tà hạnh trong các dục, sát hại hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn.
Tamenaṃ rājāno gahetvā kāmesumicchācārahetu hananti vā bandhanti vā pabbājenti vā yathāpaccayaṃ vā karonti.

Các Thầy có thấy như vậy, hay có nghe như vậy chăng?”
Api nu tumhehi evarūpaṃ diṭṭhaṃ vā sutaṃ vā’”ti?

“Bạch Thế Tôn, chúng con có thấy và có nghe như vậy. Và sẽ được nghe như vậy nữa.”
“Diṭṭhañca no, bhante, sutañca suyyissati cā”ti.

“4. Này các Tỷ-kheo, các Thầy nghĩ thế nào, các Thầy có thấy và có nghe như sau không:
“Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu tumhehi diṭṭhaṃ vā sutaṃ vā:

Người này đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo.
‘ayaṃ puriso musāvādaṃ pahāya musāvādā paṭiviratoti.

Rồi các vua bắt người ấy, do nhân từ bỏ nói láo, sát hại, hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn?”
Tamenaṃ rājāno gahetvā musāvādā veramaṇihetu hananti vā bandhanti vā pabbājenti vā yathāpaccayaṃ vā karontī’”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“No hetaṃ, bhante”.

“Lành thay, này các Tỷ-kheo!
“Sādhu, bhikkhave.

Ta cũng không thấy, cũng không nghe như sau:
Mayāpi kho etaṃ, bhikkhave, neva diṭṭhaṃ na sutaṃ:

Người này đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo.
‘ayaṃ puriso musāvādaṃ pahāya musāvādā paṭiviratoti.

Rồi các vua chúa bắt người ấy, do nhân từ bỏ nói láo, sát hại hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn.
Tamenaṃ rājāno gahetvā musāvādā veramaṇihetu hananti vā bandhanti vā pabbājenti vā yathāpaccayaṃ vā karontī’ti.

Nhưng nếu có người nói về ác nghiệp của người ấy như sau:
Api ca khvassa tatheva pāpakammaṃ pavedenti:

‘Người này do nói láo, phá hoại hạnh phúc của người gia chủ hay con người gia chủ.’
‘ayaṃ puriso gahapatissa vā gahapatiputtassa vā musāvādena atthaṃ pabhañjīti.

Rồi các vua bắt người ấy, và do nhân nói láo, sát hại hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn.
Tamenaṃ rājāno gahetvā musāvādahetu hananti vā bandhanti vā pabbājenti vā yathāpaccayaṃ vā karonti.

Các Thầy có thấy như vậy hay có nghe như vậy chăng?”
Api nu tumhehi evarūpaṃ diṭṭhaṃ vā sutaṃ vā’”ti?

“Bạch Thế Tôn, chúng con có thấy và nghe như vậy. Và sẽ được nghe như vậy nữa.”
“Diṭṭhañca no, bhante, sutañca suyyissati cā”ti.

“5. Này các Tỷ-kheo, các Thầy nghĩ thế nào, các Thầy có thấy hay có nghe như sau không:
“Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu tumhehi diṭṭhaṃ vā sutaṃ vā:

Người này đoạn tận đắm say rượu men, rượu nấu.
‘ayaṃ puriso surāmerayamajjapamādaṭṭhānaṃ pahāya surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭiviratoti.

Rồi các vua bắt người ấy, do nhân từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu, sát hại, bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn?”
Tamenaṃ rājāno gahetvā surāmerayamajjapamādaṭṭhānā veramaṇihetu hananti vā bandhanti vā pabbājenti vā yathāpaccayaṃ vā karontī’”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“No hetaṃ, bhante”.

“Lành thay, này các Tỷ-kheo!
“Sādhu, bhikkhave.

Ta cũng không thấy, cũng không nghe như sau:
Mayāpi kho etaṃ, bhikkhave, neva diṭṭhaṃ na sutaṃ:

Người này đoạn tận đắm say rượu men rượu nấu.
‘ayaṃ puriso surāmerayamajjapamādaṭṭhānaṃ pahāya surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭiviratoti.

Rồi các vua chúa bắt người ấy, do nhân từ bỏ đắm say rượu men rượu nấu, sát hại, hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn.
Tamenaṃ rājāno gahetvā surāmerayamajjapamādaṭṭhānā veramaṇihetu hananti vā bandhanti vā pabbājenti vā yathāpaccayaṃ vā karontī’ti.

Nhưng nếu có người nói về ác nghiệp của người ấy như sau:
Api ca khvassa tatheva pāpakammaṃ pavedenti:

‘Người này do đắm say rượu men rượu nấu, sát hại sinh mạng của nữ nhân hay nam nhân;
‘ayaṃ puriso surāmerayamajjapamādaṭṭhānaṃ anuyutto itthiṃ vā purisaṃ vā jīvitā voropesi;

Người này do đắm say rượu men rượu nấu, lấy của không cho, gọi là ăn trộm từ làng hay từ khu rừng;
ayaṃ puriso surāmerayamajjapamādaṭṭhānaṃ anuyutto gāmā vā araññā vā adinnaṃ theyyasaṅkhātaṃ ādiyi;

Người này do nhân đắm say rượu men rượu nấu, có tà hạnh đối với những nữ nhân của các người khác, đối với các thiếu nữ của những người khác;
ayaṃ puriso surāmerayamajjapamādaṭṭhānaṃ anuyutto paritthīsu parakumārīsu cārittaṃ āpajji;

Người này do nhân đắm say rượu men rượu nấu, nói láo, phá hoại hạnh phúc người gia chủ hay con người gia chủ.’
ayaṃ puriso surāmerayamajjapamādaṭṭhānaṃ anuyutto gahapatissa vā gahapatiputtassa vā musāvādena atthaṃ pabhañjīti.

Rồi các vua bắt người ấy, do nhân đắm say rượu men rượu nấu, sát hại hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn.
Tamenaṃ rājāno gahetvā surāmerayamajjapamādaṭṭhānahetu hananti vā bandhanti vā pabbājenti vā yathāpaccayaṃ vā karonti.

Các Thầy có thấy như vậy, có nghe như vậy chăng?”
Api nu tumhehi evarūpaṃ diṭṭhaṃ vā sutaṃ vā’”ti?

“Bạch Thế Tôn, chúng con có thấy, có nghe như vậy và sẽ được nghe như vậy nữa.”
“Diṭṭhañca no, bhante, sutañca suyyissati cā”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt