Tăng Chi Bộ 5.180
Aṅguttara Nikāya 5.180
18. Phẩm Nam Cư Sĩ
18. Upāsakavagga
Gavesi, Người Tầm Cầu
Gavesīsutta
1. Một thời, Thế Tôn đang đi du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā kosalesu cārikaṃ carati mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ.
Trong khi đang đi trên đường, Thế Tôn thấy một chỗ có khóm rừng cây Sāla to lớn;
Addasā kho bhagavā addhānamaggappaṭipanno aññatarasmiṃ padese mahantaṃ sālavanaṃ;
Thấy vậy, Ngài bước xuống đường, đi đến khóm rừng cây Sāla ấy, đi sâu vào rừng Sāla ấy, và tại một địa điểm, Ngài mỉm cười.
disvāna maggā okkamma yena taṃ sālavanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ sālavanaṃ ajjhogāhetvā aññatarasmiṃ padese sitaṃ pātvākāsi.
Rồi Tôn giả Ānanda suy nghĩ:
Atha kho āyasmato ānandassa etadahosi:
“Do nhân gì, do duyên gì, Thế Tôn tỏ lộ mỉm cười? Không phải không có duyên cớ, các Như Lai tỏ lộ mỉm cười.”
“ko nu kho hetu ko paccayo bhagavato sitassa pātukammāya? Na akāraṇena tathāgatā sitaṃ pātukarontī”ti.
Rồi Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca:
“Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, Thế Tôn tỏ lộ mỉm cười? Không phải không có duyên cớ, các Như Lai tỏ lộ mỉm cười.”
“ko nu kho, bhante, hetu ko paccayo bhagavato sitassa pātukammāya? Na akāraṇena tathāgatā sitaṃ pātukarontī”ti.
“2. Thuở xưa, này Ānanda, tại địa điểm này, có một thành phố phồn thịnh, giàu có và dân cư đông đúc.
“Bhūtapubbaṃ, ānanda, imasmiṃ padese nagaraṃ ahosi iddhañceva phītañca bahujanaṃ ākiṇṇamanussaṃ.
Tại thành phố ấy, này Ānanda, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ở gần đây.
Taṃ kho panānanda, nagaraṃ kassapo bhagavā arahaṃ sammāsambuddho upanissāya vihāsi.
Này Ānanda, Gavesī là một nam cư sĩ của Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, nhưng giữ giới không được viên mãn.
Kassapassa kho panānanda, bhagavato arahato sammāsambuddhassa gavesī nāma upāsako ahosi sīlesu aparipūrakārī.
Rồi này Ānanda, có khoảng 500 nam cư sĩ được cư sĩ Gavesī thuyết pháp và khích lệ, các người này giữ giới luật không được viên mãn.
Gavesinā kho, ānanda, upāsakena pañcamattāni upāsakasatāni paṭidesitāni samādapitāni ahesuṃ sīlesu aparipūrakārino.
Rồi này Ānanda, nam cư sĩ Gavesī suy nghĩ như sau:
Atha kho, ānanda, gavesissa upāsakassa etadahosi:
‘Ta giúp đỡ rất nhiều 500 vị nam cư sĩ này. Ta đi trước, ta khích lệ họ, nhưng ta giữ giới luật không được viên mãn.
‘ahaṃ kho imesaṃ pañcannaṃ upāsakasatānaṃ bahūpakāro pubbaṅgamo samādapetā, ahañcamhi sīlesu aparipūrakārī, imāni ca pañca upāsakasatāni sīlesu aparipūrakārino.
Như vậy là đồng đẳng giống nhau, không có gì trội hơn, nhiều hơn. Vậy ta hãy làm cái gì trội hơn, nhiều hơn.’
Iccetaṃ samasamaṃ, natthi kiñci atirekaṃ; handāhaṃ atirekāyā’ti.
Rồi này Ānanda, nam cư sĩ Gavesī đi đến 500 nam cư sĩ ấy; sau khi đến, nói với 500 nam cư sĩ ấy như sau:
Atha kho, ānanda, gavesī upāsako yena tāni pañca upāsakasatāni tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā tāni pañca upāsakasatāni etadavoca:
‘Này các Tôn giả, bắt đầu từ hôm nay, ta sẽ thọ trì viên mãn trong các giới luật.’
‘ajjatagge maṃ āyasmanto sīlesu paripūrakāriṃ dhārethā’ti.
Rồi này Ānanda, 500 nam cư sĩ ấy suy nghĩ như sau:
Atha kho, ānanda, tesaṃ pañcannaṃ upāsakasatānaṃ etadahosi:
Tôn giả Gavesī đã giúp đỡ chúng ta rất nhiều, đã đi trước, đã khích lệ chúng ta.
‘ayyo kho gavesī amhākaṃ bahūpakāro pubbaṅgamo samādapetā.
Tôn giả Gavesī sẽ gìn giữ viên mãn trong các giới luật.
Ayyo hi nāma gavesī sīlesu paripūrakārī bhavissati.
Tại sao chúng ta lại không như vậy?’
Kimaṅgaṃ pana mayan’ti.
Rồi này Ānanda, 500 nam cư sĩ ấy đi đến nam cư sĩ Gavesī; sau khi đến, nói với nam cư sĩ Gavesī:
Atha kho, ānanda, tāni pañca upāsakasatāni yena gavesī upāsako tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā gavesiṃ upāsakaṃ etadavocuṃ:
‘Bắt đầu từ hôm nay, thưa Tôn giả Gavesī, chúng tôi sẽ thọ trì viên mãn trong các giới luật.’
‘ajjatagge ayyo gavesī imānipi pañca upāsakasatāni sīlesu paripūrakārino dhāretū’ti.
Rồi này Ānanda, nam cư sĩ Gavesī suy nghĩ như sau:
Atha kho, ānanda, gavesissa upāsakassa etadahosi:
‘Ta giúp đỡ rất nhiều cho 500 nam cư sĩ này, ta đi trước, ta khích lệ họ. Và năm trăm nam cư sĩ này gìn giữ viên mãn trong các giới luật.
‘ahaṃ kho imesaṃ pañcannaṃ upāsakasatānaṃ bahūpakāro pubbaṅgamo samādapetā, ahañcamhi sīlesu paripūrakārī, imānipi pañca upāsakasatāni sīlesu paripūrakārino.
như vậy là đồng đẳng giống nhau, không có gì trội hơn, nhiều hơn. Vậy ta hãy làm cái gì trội hơn, nhiều hơn.’
Iccetaṃ samasamaṃ, natthi kiñci atirekaṃ; handāhaṃ atirekāyā’ti.
Rồi này Ānanda, nam cư sĩ Gavesī đi đến 500 nam cư sĩ ấy; sau khi đến, nói với 500 vị nam cư sĩ ấy như sau:
Atha kho, ānanda, gavesī upāsako yena tāni pañca upāsakasatāni tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā tāni pañca upāsakasatāni etadavoca:
‘Bắt đầu từ ngày hôm nay, này các Tôn giả, ta sẽ thọ trì Phạm hạnh, sống viễn ly, từ bỏ dâm dục hạ liệt.’
‘ajjatagge maṃ āyasmanto brahmacāriṃ dhāretha ārācāriṃ virataṃ methunā gāmadhammā’ti.
Rồi này Ānanda, 500 nam cư sĩ ấy suy nghĩ như sau:
Atha kho, ānanda, tesaṃ pañcannaṃ upāsakasatānaṃ etadahosi:
‘Tôn giả Gavesī giúp đỡ chúng ta rất nhiều, đã đi trước và khích lệ chúng ta. Và Tôn giả Gavesī sẽ hành Phạm hạnh, sống viễn ly, từ bỏ dâm dục hạ liệt. Tại sao chúng ta lại không như vậy?’
‘ayyo kho gavesī amhākaṃ bahūpakāro pubbaṅgamo samādapetā. Ayyo hi nāma gavesī brahmacārī bhavissati ārācārī virato methunā gāmadhammā. Kimaṅgaṃ pana mayan’ti.
Rồi này Ānanda, 500 nam cư sĩ ấy đi đến nam cư sĩ Gavesī; sau khi đến, nói với nam cư sĩ Gavesī:
Atha kho, ānanda, tāni pañca upāsakasatāni yena gavesī upāsako tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā gavesiṃ upāsakaṃ etadavocuṃ:
‘Bắt đầu từ hôm nay, thưa Tôn giả Gavesī, chúng tôi sẽ thọ trì Phạm hạnh, sống viễn ly, từ bỏ dâm dục hèn hạ.’
‘ajjatagge ayyo gavesī imānipi pañca upāsakasatāni brahmacārino dhāretu ārācārino viratā methunā gāmadhammā’ti.
Rồi nam cư sĩ Gavesī suy nghĩ như sau:
Atha kho, ānanda, gavesissa upāsakassa etadahosi:
‘Ta giúp đỡ rất nhiều cho 500 nam cư sĩ này, ta đi trước, ta khích lệ họ. Ta giữ gìn viên mãn trong các giới luật, 500 nam cư sĩ này giữ gìn viên mãn trong các giới luật. Và ta hành Phạm hạnh, sống viễn ly, từ bỏ dâm dục hạ liệt.
‘ahaṃ kho imesaṃ pañcannaṃ upāsakasatānaṃ bahūpakāro pubbaṅgamo samādapetā. Ahañcamhi sīlesu paripūrakārī. Imānipi pañca upāsakasatāni sīlesu paripūrakārino. Ahañcamhi brahmacārī ārācārī virato methunā gāmadhammā.
Và 500 nam cư sĩ này hành Phạm hạnh, sống viễn ly, từ bỏ dâm dục hạ liệt. Như vậy là đồng đẳng giống nhau, không có gì trội hơn, nhiều hơn. Vậy ta hãy làm cái gì trội hơn, nhiều hơn.’
Imānipi pañca upāsakasatāni brahmacārino ārācārino viratā methunā gāmadhammā. Iccetaṃ samasamaṃ, natthi kiñci atirekaṃ; handāhaṃ atirekāyā’ti.
Rồi này Ānanda, nam cư sĩ Gavesī đi đến 500 nam cư sĩ ấy; sau khi đến, nói với 500 vị nam cư sĩ ấy như sau:
Atha kho, ānanda, gavesī upāsako yena tāni pañca upāsakasatāni tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā tāni pañca upāsakasatāni etadavoca:
‘Bắt đầu từ ngày hôm nay, này các Tôn giả, ta sẽ ăn mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời.’
‘ajjatagge maṃ āyasmanto ekabhattikaṃ dhāretha rattūparataṃ virataṃ vikālabhojanā’ti.
Rồi này Ānanda, 500 nam cư sĩ ấy suy nghĩ như sau:
Atha kho, ānanda, tesaṃ pañcannaṃ upāsakasatānaṃ etadahosi:
Tôn giả Gavesī giúp đỡ chúng ta rất nhiều, đã đi trước và khích lệ chúng ta. Tôn giả Gavesī sẽ ăn mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời. Tại sao chúng ta lại không như vậy?
‘ayyo kho gavesī bahūpakāro pubbaṅgamo samādapetā. Ayyo hi nāma gavesī ekabhattiko bhavissati rattūparato virato vikālabhojanā. Kimaṅgaṃ pana mayan’ti.
Rồi này Ānanda, 500 nam cư sĩ ấy đi đến nam cư sĩ Gavesī; sau khi đến, nói với nam cư sĩ Gavesī:
Atha kho, ānanda, tāni pañca upāsakasatāni yena gavesī upāsako tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā gavesiṃ upāsakaṃ etadavocuṃ:
‘Bắt đầu từ hôm nay, thưa Tôn giả Gavesī, 500 nam cư sĩ này sẽ thọ trì ăn mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời.’
‘ajjatagge ayyo gavesī imānipi pañca upāsakasatāni ekabhattike dhāretu rattūparate virate vikālabhojanā’ti.
Rồi này Ānanda, nam cư sĩ Gavesī suy nghĩ như sau:
Atha kho, ānanda, gavesissa upāsakassa etadahosi:
‘Ta giúp đỡ cho 500 nam cư sĩ này rất nhiều. Ta đã đi trước và khích lệ họ. Nay ta giữ gìn viên mãn trong các giới luật, 500 nam cư sĩ này giữ gìn viên mãn trong các giới luật. Ta hành Phạm hạnh, sống viễn ly, từ bỏ dâm dục hèn hạ, 500 nam cư sĩ này hành Phạm hạnh, sống viễn ly, từ bỏ dâm dục hèn hạ.
‘ahaṃ kho imesaṃ pañcannaṃ upāsakasatānaṃ bahūpakāro pubbaṅgamo samādapetā. Ahañcamhi sīlesu paripūrakārī. Imānipi pañca upāsakasatāni sīlesu paripūrakārino. Ahañcamhi brahmacārī ārācārī virato methunā gāmadhammā. Imānipi pañca upāsakasatāni brahmacārino ārācārino viratā methunā gāmadhammā.
Ta ăn mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời. 500 nam cư sĩ này cũng ăn mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời.
Ahañcamhi ekabhattiko rattūparato virato vikālabhojanā. Imānipi pañca upāsakasatāni ekabhattikā rattūparatā viratā vikālabhojanā.
Như vậy là có sự đồng đẳng giống nhau, không có gì trội hơn, nhiều hơn. Vậy ta hãy làm cái gì trội hơn, nhiều hơn.’
Iccetaṃ samasamaṃ, natthi kiñci atirekaṃ; handāhaṃ atirekāyā’ti.
Rồi này Ānanda, Tôn giả Gavesī đi đến Thế Tôn Kassapa; bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, sau khi đến, bạch với Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác:
Atha kho, ānanda, gavesī upāsako yena kassapo bhagavā arahaṃ sammāsambuddho tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā kassapaṃ bhagavantaṃ arahantaṃ sammāsambuddhaṃ etadavoca:
‘Bạch Thế Tôn, hãy cho con xuất gia với Thế Tôn, hãy cho con thọ đại giới.’
‘labheyyāhaṃ, bhante, bhagavato santike pabbajjaṃ labheyyaṃ upasampadan’ti.
Rồi này Ānanda, nam cư sĩ Gavesī được xuất gia với Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, được thọ đại giới.
Alattha kho, ānanda, gavesī upāsako kassapassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa santike pabbajjaṃ, alattha upasampadaṃ.
Ðược thọ đại giới không bao lâu này Ānanda, Tỷ-kheo Gavesī sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần và không bao lâu, vị này chứng được mục đính tối cao mà các thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến. Ðó là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, vị này ngay trong hiện tại tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú.
Acirūpasampanno kho panānanda, gavesī bhikkhu eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto viharanto nacirasseva—yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti, tadanuttaraṃ—brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsi.
Và vị ấy xác chứng: ‘Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các điều nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa.’
‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti abbhaññāsi.
Và Tỷ-kheo Gavesī trở thành một vị A-la-hán.
Aññataro ca panānanda, gavesī bhikkhu arahataṃ ahosi.
Và này Ānanda, 500 nam cư sĩ ấy suy nghĩ như sau:
Atha kho, ānanda, tesaṃ pañcannaṃ upāsakasatānaṃ etadahosi:
‘Tỷ-kheo Gavesī giúp đỡ chúng ta rất nhiều, đã đi trước và khích lệ chúng ta.
‘ayyo kho gavesī amhākaṃ bahūpakāro pubbaṅgamo samādapetā.
Nay Tôn giả Gavesī đã cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tại sao chúng ta lại không như vậy?’
Ayyo hi nāma gavesī kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajissati. Kimaṅgaṃ pana mayan’ti.
Rồi này Ānanda, 500 nam cư sĩ ấy đi đến Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, sau khi đến, bạch Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác:
Atha kho, ānanda, tāni pañca upāsakasatāni yena kassapo bhagavā arahaṃ sammāsambuddho tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā kassapaṃ bhagavantaṃ arahantaṃ sammāsambuddhaṃ etadavocuṃ:
‘Bạch Thế Tôn, hãy cho chúng con xuất gia với Thế Tôn, cho chúng con thọ đại giới.’
‘labheyyāma mayaṃ, bhante, bhagavato santike pabbajjaṃ, labheyyāma upasampadan’ti.
Và này Ānanda, năm trăm nam cư sĩ ấy được xuất gia với Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, được thọ đại giới.
Alabhiṃsu kho, ānanda, tāni pañca upāsakasatāni kassapassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa santike pabbajjaṃ, alabhiṃsu upasampadaṃ.
Rồi này Ānanda, Tỷ-kheo Gavesī suy nghĩ như sau:
Atha kho, ānanda, gavesissa bhikkhuno etadahosi:
‘Ta đã chứng minh được vô thượng giải thoát này không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức.
‘ahaṃ kho imassa anuttarassa vimuttisukhassa nikāmalābhī homi akicchalābhī akasiralābhī.
Mong rằng 500 vị Tỷ-kheo ấy có thể chứng minh được vô thượng giải thoát này không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức!’
Aho vatimānipi pañca bhikkhusatāni imassa anuttarassa vimuttisukhassa nikāmalābhino assu akicchalābhino akasiralābhino’ti.
Rồi này Ānanda, 500 vị Tỷ-kheo ấy sống an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần, không bao lâu, các vị ấy chứng được mục đích tối cao mà các thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến. Ðó là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, các vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú.
Atha kho, ānanda, tāni pañca bhikkhusatāni vūpakaṭṭhā appamattā ātāpino pahitattā viharantā nacirasseva—yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti, tadanuttaraṃ—
brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihariṃsu.
Và các vị ấy xác chứng: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc phải làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.
‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti abbhaññiṃsu.
3. Như vậy, này Ānanda, 500 vị Tỷ-kheo ấy, do Gavesī cầm đầu, trong khi tinh tấn đạt đến những gì cao hơn nữa, những gì tối thắng hơn nữa, đã chứng ngộ vô thượng giải thoát.
Iti kho, ānanda, tāni pañca bhikkhusatāni gavesīpamukhāni uttaruttari paṇītapaṇītaṃ vāyamamānā anuttaraṃ vimuttiṃ sacchākaṃsu.
Do vậy, này Ānanda, cần phải học tập như sau:
Tasmātiha, ānanda, evaṃ sikkhitabbaṃ:
‘4. Hãy tinh tấn để đạt đến những gì cao hơn nữa, tối thắng hơn nữa, chúng ta sẽ chứng ngộ vô thượng giải thoát.’
‘uttaruttari paṇītapaṇītaṃ vāyamamānā anuttaraṃ vimuttiṃ sacchikarissāmā’ti.
Như vậy, này Ānanda, các Thầy cần phải học tập.”
Evañhi vo, ānanda, sikkhitabban”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt