Tăng Chi Bộ 5.249
Aṅguttara Nikāya 5.249
25. Phẩm Ác Hành
25. Duccaritavagga
Nghĩa Địa
Sivathikasutta
“1. Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này trong nghĩa địa. Thế nào là năm?
“Pañcime, bhikkhave, ādīnavā sivathikāya. Katame pañca?
2. Bất tịnh, hôi thúi, đáng sợ hãi, trú xứ các phi nhân hung bạo, làm cho quần chúng than khóc.
Asuci, duggandhā, sappaṭibhayā, vāḷānaṃ amanussānaṃ āvāso, bahuno janassa ārodanā—
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này trong nghĩa địa.
ime kho, bhikkhave, pañca ādīnavā sivathikāya.
3. Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này trong người được ví như nghĩa địa. Thế nào là năm?
Evamevaṃ kho, bhikkhave, pañcime ādīnavā sivathikūpame puggale. Katame pañca?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thành tựu thân nghiệp bất tịnh; thành tựu khẩu nghiệp bất tịnh; thành tựu ý nghiệp bất tịnh.
Idha, bhikkhave, ekacco puggalo asucinā kāyakammena samannāgato hoti; asucinā vacīkammena samannāgato hoti; asucinā manokammena samannāgato hoti.
Ta nói rằng đây là sự bất tịnh của người ấy.
Idamassa asucitāya vadāmi.
Ví như, này các Tỷ-kheo, sự bất tịnh ấy của nghĩa địa; Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ ấy.
Seyyathāpi sā, bhikkhave, sivathikā asuci; tathūpamāhaṃ, bhikkhave, imaṃ puggalaṃ vadāmi.
5. Ai thành tựu thân nghiệp bất tịnh, thành tựu khẩu nghiệp bất tịnh, thành tựu ý nghiệp bất tịnh, tiếng ác được đồn khắp.
Tassa asucinā kāyakammena samannāgatassa, asucinā vacīkammena samannāgatassa, asucinā manokammena samannāgatassa pāpako kittisaddo abbhuggacchati.
Ta nói rằng đây là mùi hôi thúi của người ấy.
Idamassa duggandhatāya vadāmi.
Ví như, này các Tỷ-kheo, mùi hôi thúi ấy của nghĩa địa. Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ ấy.
Seyyathāpi sā, bhikkhave, sivathikā duggandhā; tathūpamāhaṃ, bhikkhave, imaṃ puggalaṃ vadāmi.
6. Với vị thành tựu thân nghiệp bất tịnh, thành tựu khẩu nghiệp bất tịnh, thành tựu ý nghiệp bất tịnh, các vị thuần tịnh đồng Phạm hạnh tránh né đứng xa.
Tamenaṃ asucinā kāyakammena samannāgataṃ, asucinā vacīkammena samannāgataṃ, asucinā manokammena samannāgataṃ pesalā sabrahmacārī ārakā parivajjanti.
Ta nói rằng đây là sự đáng sợ hãi của người ấy.
Idamassa sappaṭibhayasmiṃ vadāmi.
Ví như, này các Tỷ-kheo, sự đáng sợ hãi của nghĩa địa. Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ ấy.
Seyyathāpi sā, bhikkhave, sivathikā sappaṭibhayā; tathūpamāhaṃ, bhikkhave, imaṃ puggalaṃ vadāmi.
7. Ai thành tựu thân nghiệp bất tịnh, thành tựu khẩu nghiệp bất tịnh, thành tựu ý nghiệp bất tịnh, sống chung với những hạng người cũng đồng chung với nếp sống ấy.
So asucinā kāyakammena samannāgato, asucinā vacīkammena samannāgato, asucinā manokammena samannāgato sabhāgehi puggalehi saddhiṃ saṃvasati.
Ta nói rằng đây là trú xứ hung bạo của người ấy.
Idamassa vāḷāvāsasmiṃ vadāmi.
Ví như, này các Tỷ-kheo, trú xứ các phi nhân hung bạo của nghĩa địa, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ ấy.
Seyyathāpi sā, bhikkhave, sivathikā vāḷānaṃ amanussānaṃ āvāso; tathūpamāhaṃ, bhikkhave, imaṃ puggalaṃ vadāmi.
8. Với vị thành tựu thân nghiệp bất tịnh, thành tựu khẩu nghiệp bất tịnh, thành tựu ý nghiệp bất tịnh này, các vị thuần tịnh đồng Phạm hạnh thấy vậy trở thành bất mãn và nói:
Tamenaṃ asucinā kāyakammena samannāgataṃ, asucinā vacīkammena samannāgataṃ, asucinā manokammena samannāgataṃ pesalā sabrahmacārī disvā khīyadhammaṃ āpajjanti:
‘Ôi thật là khổ cho chúng tôi, chúng tôi phải chung sống với những người như vậy.’
‘aho vata no dukkhaṃ ye mayaṃ evarūpehi puggalehi saddhiṃ saṃvasāmā’ti.
Ta nói rằng đây là làm cho quần chúng than khóc của người ấy.
Idamassa ārodanāya vadāmi.
Ví như này các Tỷ-kheo, nghĩa địa là chỗ làm cho nhiều người than khóc, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ ấy.
Seyyathāpi sā, bhikkhave, sivathikā bahuno janassa ārodanā; tathūpamāhaṃ, bhikkhave, imaṃ puggalaṃ vadāmi.
Ðây là năm nguy hại, này các Tỷ-kheo, trong người được ví như nghĩa địa.”
Ime kho, bhikkhave, pañca ādīnavā sivathikūpame puggale”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt