Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 5.31

Tăng Chi Bộ 5.31
Aṅguttara Nikāya 5.31

4. Phẩm Sumanā
4. Sumanavagga

Sumana, Con Gái Vua
Sumanasutta

1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, Jetavana, tại khu vườn của Anāthapiṇḍika. Rồi Sumanā, con gái vua, với năm trăm thiếu nữ hộ tống trên năm trăm cỗ xe, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Sumanā, con gái vua bạch Thế Tôn:
Ekaṃ samayaṃ ...pe... anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho sumanā rājakumārī pañcahi rathasatehi pañcahi rājakumārisatehi parivutā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnā kho sumanā rājakumārī bhagavantaṃ etadavoca:

2. Ở đây, bạch Thế Tôn, có hai đệ tử của Thế Tôn đồng đẳng về tín, đồng đẳng về giới, đồng đẳng về tuệ, một có bố thí, một không bố thí. Sau khi thân hoại mạng chung, cả hai được sanh lên cõi lành Thiên giới. Giữa hai vị thiên ấy, có sự đặc thù gì, có sự sai khác gì?
“Idhassu, bhante, bhagavato dve sāvakā samasaddhā samasīlā samapaññā—eko dāyako, eko adāyako. Te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjeyyuṃ. Devabhūtānaṃ pana nesaṃ, bhante, siyā viseso, siyā nānākaraṇan”ti?

Thế Tôn đáp: “Có sự sai biệt, này Sumanā.”
“Siyā, sumane”ti bhagavā avoca:

3. Người có bố thí, khi được làm vị Thiên, vượt qua vị Thiên không có bố thí trên năm phương diện. Về thiên thọ mạng, về thiên sắc, về thiên lạc, về thiên danh xưng, về thiên tăng thượng. Người có bố thí, này Sumanā, khi được làm vị Thiên, vượt qua vị Thiên không bố thí trên năm phương diện này.
“yo so, sumane, dāyako so amuṃ adāyakaṃ devabhūto samāno pañcahi ṭhānehi adhigaṇhāti—dibbena āyunā, dibbena vaṇṇena, dibbena sukhena, dibbena yasena, dibbena ādhipateyyena. Yo so, sumane, dāyako so amuṃ adāyakaṃ devabhūto samāno imehi pañcahi ṭhānehi adhigaṇhāti”.

4. Bạch Thế Tôn, nếu họ từ đây mạng chung, trở lại trạng thái này, khi họ trở lại làm người, bạch Thế Tôn, có sự đặc thù gì, có sự sai khác gì?
“Sace pana te, bhante, tato cutā itthattaṃ āgacchanti, manussabhūtānaṃ pana nesaṃ, bhante, siyā viseso, siyā nānākaraṇan”ti?

Thế Tôn đáp: “Có sự sai biệt, này Sumanā.”
“Siyā, sumane”ti bhagavā avoca:

5. Người có bố thí, khi được làm người, vượt qua vị làm người không bố thí trên năm phương diện: Về nhân thọ mạng, về nhân sắc, về nhân lạc, về nhân danh xưng, về nhân tăng thượng. Người có bố thí, này Sumanā, khi được làm người, vượt qua vị làm người không bố thí trên năm phương diện này.
“yo so, sumane, dāyako so amuṃ adāyakaṃ manussabhūto samāno pañcahi ṭhānehi adhigaṇhāti—mānusakena āyunā, mānusakena vaṇṇena, mānusakena sukhena, mānusakena yasena, mānusakena ādhipateyyena. Yo so, sumane, dāyako so amuṃ adāyakaṃ manussabhūto samāno imehi pañcahi ṭhānehi adhigaṇhāti”.

6. Bạch Thế Tôn, nếu cả hai đều xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Giữa hai người xuất gia ấy, bạch Thế Tôn có thể có những đặc thù gì, những sai khác gì?
“Sace pana te, bhante, ubho agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti, pabbajitānaṃ pana nesaṃ, bhante, siyā viseso, siyā nānākaraṇan”ti?

Thế Tôn đáp: “Có sự sai biệt, này Sumanā.”
“Siyā, sumane”ti bhagavā avoca:

7. Người có bố thí, khi được xuất gia, vượt qua vị xuất gia không có bố thí trên năm phương diện:
“yo so, sumane, dāyako so amuṃ adāyakaṃ pabbajito samāno pañcahi ṭhānehi adhigaṇhāti—

Thường hay được yêu cầu nhận y, ít khi không được yêu cầu; thường hay được yêu cầu nhận đồ ăn khất thực, ít khi không được yêu cầu; thường hay được yêu cầu nhận sàng tọa, ít khi không được yêu cầu; thường hay được yêu cầu nhận dược phẩm trị bệnh, ít khi không được yêu cầu.
yācitova bahulaṃ cīvaraṃ paribhuñjati appaṃ ayācito, yācitova bahulaṃ piṇḍapātaṃ paribhuñjati appaṃ ayācito, yācitova bahulaṃ senāsanaṃ paribhuñjati appaṃ ayācito, yācitova bahulaṃ gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ paribhuñjati appaṃ ayācito.

Vị ấy sống với những vị đồng Phạm hạnh nào, các vị này đối với vị ấy, xử sự với nhiều thân nghiệp khả ái, với ít thân nghiệp không khả ái, với nhiều khẩu nghiệp khả ái, với ít khẩu nghiệp không khả ái, với nhiều ý nghiệp khả ái, với ít ý nghiệp không khả ái, giúp đỡ với nhiều giúp đỡ khả ái, với ít giúp đỡ không khả ái.
Yehi kho pana sabrahmacārīhi saddhiṃ viharati tyassa manāpeneva bahulaṃ kāyakammena samudācaranti appaṃ amanāpena, manāpeneva bahulaṃ vacīkammena samudācaranti appaṃ amanāpena, manāpeneva bahulaṃ manokammena samudācaranti appaṃ amanāpena, manāpaṃyeva bahulaṃ upahāraṃ upaharanti appaṃ amanāpaṃ.

Này Sumanā, người có bố thí khi được xuất gia, vượt qua người không có bố thí trên năm phương diện này.
Yo so, sumane, dāyako so amuṃ adāyakaṃ pabbajito samāno imehi pañcahi ṭhānehi adhigaṇhātī”ti.

8. Nhưng bạch Thế Tôn, nếu cả hai đều chứng quả A-la-hán. Với hai vị chứng đạt A-la-hán ấy, bạch Thế Tôn có sự đặc thù nào, có sự sai khác nào?
“Sace pana te, bhante, ubho arahattaṃ pāpuṇanti, arahattappattānaṃ pana nesaṃ, bhante, siyā viseso, siyā nānākaraṇan”ti?

9. Ở đây, này Sumanà, Ta nói không có sự sai khác nào, tức là so sánh giải thoát với giải thoát.
“Ettha kho panesāhaṃ, sumane, na kiñci nānākaraṇaṃ vadāmi, yadidaṃ vimuttiyā vimuttin”ti.

10. Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn!
“Acchariyaṃ, bhante, abbhutaṃ, bhante.

Xa cho đến như vậy là vừa đủ để bố thí, là vừa đủ để làm cho các công đức.
Yāvañcidaṃ, bhante, alameva dānāni dātuṃ alaṃ puññāni kātuṃ;

Vì rằng chúng là những giúp đỡ, những công đức cho chư Thiên, chúng là những giúp đỡ, những công đức cho loài Người, chúng là những giúp đỡ, những công đức cho các người xuất gia.
yatra hi nāma devabhūtassāpi upakārāni puññāni, manussabhūtassāpi upakārāni puññāni, pabbajitassāpi upakārāni puññānī”ti.

Sự việc là như vậy, này Sumanā. Là vừa đủ, này Sumanā, để bố thí, là vừa đủ để làm các công đức. Chúng là những giúp ích, những công đức cho chư Thiên, chúng là những giúp ích, những công đức cho loài Người, chúng là những giúp ích, những công đức cho những người xuất gia.
“Evametaṃ, sumane. Alañhi, sumane, dānāni dātuṃ alaṃ puññāni kātuṃ. Devabhūtassāpi upakārāni puññāni, manussabhūtassāpi upakārāni puññāni, pabbajitassāpi upakārāni puññānī”ti.

11. Thế Tôn thuyết như vậy. Bậc Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:
Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā:

“Như mặt trăng không uế,
“Yathāpi cando vimalo,
Ði giữa hư không giới,
gacchaṃ ākāsadhātuyā;
Với ánh sáng bừng chói,
Sabbe tārāgaṇe loke,
Giữa quần sao ở đời.
ābhāya atirocati.

Cũng vậy, người đủ giới,
Tatheva sīlasampanno,
Hạng người có lòng tin,
saddho purisapuggalo;
Với bố thí, bừng chói,
Sabbe maccharino loke,
Giữa xan tham ở đời.
cāgena atirocati.

Như mây mưa sấm sét,
Yathāpi megho thanayaṃ,
Vòng hoa chớp trăm đầu,
vijjumālī satakkaku;
Tràn đầy cả thung lũng,
Thalaṃ ninnañca pūreti,
Lan tràn cả đất bằng.
abhivassaṃ vasundharaṃ.

Cũng vậy, đầy tri kiến,
Evaṃ dassanasampanno,
Ðệ tử bậc Chánh Giác,
sammāsambuddhasāvako;
Bậc trí vượt xan tham,
Macchariṃ adhigaṇhāti,
Trên cả năm phương diện,
pañcaṭhānehi paṇḍito.

Thọ mạng và danh xưng,
Āyunā yasasā ceva,
Dung sắc và an lạc,
vaṇṇena ca sukhena ca;
Với tài sản sung mãn,
Sa ve bhogaparibyūḷho,
Chết hưởng hỷ lạc thiên.
pecca sagge pamodatī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt