Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 6.13

Tăng Chi Bộ 6.13
Aṅguttara Nikāya 6.13

2. Phẩm Cần Phải Nhớ
2. Sāraṇīyavagga

Xuất Ly Giới
Nissāraṇīyasutta

“1. Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp xuất ly giới này. Thế nào là sáu?
“Chayimā, bhikkhave, nissāraṇīyā dhātuyo. Katamā cha?

2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nói như sau:
Idha, bhikkhave, bhikkhu evaṃ vadeyya:

‘Ta đã tu từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần.
‘mettā hi kho me cetovimutti bhāvitā bahulīkatā yānīkatā vatthukatā anuṭṭhitā paricitā susamāraddhā;

tuy vậy, sân tâm vẫn ngự trị tâm ta.’
atha ca pana me byāpādo cittaṃ pariyādāya tiṭṭhatī’ti.

Vị ấy cần phải được nói như sau: “Chớ có như vậy, Hiền giả chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn như vậy không tốt. Thế Tôn không nói như vậy.
So ‘mā hevan’tissa vacanīyo: ‘māyasmā evaṃ avaca; mā bhagavantaṃ abbhācikkhi, na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ, na hi bhagavā evaṃ vadeyya.

Này Hiền giả, sự kiện không phải như vậy, trường hợp không phải như vậy. Ai tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần.
Aṭṭhānametaṃ, āvuso, anavakāso yaṃ mettāya cetovimuttiyā bhāvitāya bahulīkatāya yānīkatāya vatthukatāya anuṭṭhitāya paricitāya susamāraddhāya;

Tuy vậy, sân tâm vẫn ngự trị, an trú.
atha ca panassa byāpādo cittaṃ pariyādāya ṭhassati, netaṃ ṭhānaṃ vijjati.

Sự kiện như vậy không xảy ra, này Hiền giả, cái này có khả năng giải thoát sân tâm, tức là từ tâm giải thoát.’
Nissaraṇañhetaṃ, āvuso, byāpādassa yadidaṃ mettācetovimuttī’ti.

3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nói như sau:
Idha pana, bhikkhave, bhikkhu evaṃ vadeyya:

‘Ta đã tu tập, bi tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần.
‘karuṇā hi kho me cetovimutti bhāvitā bahulīkatā yānīkatā vatthukatā anuṭṭhitā paricitā susamāraddhā;

Tuy vậy, hại tâm vẫn ngự trị tâm ta.’
atha ca pana me vihesā cittaṃ pariyādāya tiṭṭhatī’ti.

Vị ấy cần phải được nói như sau: “Chớ có như vậy, Hiền giả chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn như vậy không tốt. Thế Tôn không nói như vậy.
So ‘mā hevan’tissa vacanīyo: ‘māyasmā evaṃ avaca; mā bhagavantaṃ abbhācikkhi, na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ, na hi bhagavā evaṃ vadeyya.

Này Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Ai tu tập bi tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần; tuy vậy, hại tâm vẫn ngự trị, an trú; sự kiện không xảy ra như vậy.
Aṭṭhānametaṃ, āvuso, anavakāso yaṃ karuṇāya cetovimuttiyā bhāvitāya bahulīkatāya yānīkatāya vatthukatāya anuṭṭhitāya paricitāya susamāraddhāya; atha ca panassa vihesā cittaṃ pariyādāya ṭhassati, netaṃ ṭhānaṃ vijjati.

Này Hiền giả, cái này có khả năng giải thoát hại tâm, tức là bi tâm giải thoát.’
Nissaraṇañhetaṃ, āvuso, vihesāya yadidaṃ karuṇācetovimuttī’ti.

4. Này các Tỷ-kheo, ở đây vị Tỷ-kheo nói như sau:
Idha pana, bhikkhave, bhikkhu evaṃ vadeyya:

‘Ta đã tu tập hỷ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần.
‘muditā hi kho me cetovimutti bhāvitā bahulīkatā yānīkatā vatthukatā anuṭṭhitā paricitā susamāraddhā;

Tuy vậy, bất lạc tâm vẫn ngự trị tâm ta.’
atha ca pana me arati cittaṃ pariyādāya tiṭṭhatī’ti.

Vị ấy cần phải được nói như sau: “Chớ có như vậy. Hiền giả chớ nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy.
So ‘mā hevan’tissa vacanīyo: ‘māyasmā evaṃ avaca; mā bhagavantaṃ abbhācikkhi, na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ, na hi bhagavā evaṃ vadeyya.

Này Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Nếu tu tập hỷ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần; tuy vậy, bất lạc tâm vẫn ngự trị, an trú; sự kiện không xảy ra như vậy.
Aṭṭhānametaṃ, āvuso, anavakāso yaṃ muditāya cetovimuttiyā bhāvitāya bahulīkatāya yānīkatāya vatthukatāya anuṭṭhitāya paricitāya susamāraddhāya; atha ca panassa arati cittaṃ pariyādāya ṭhassati, netaṃ ṭhānaṃ vijjati.

Này Hiền giả, cái này có khả năng giải thoát bất lạc tâm, tức là hỷ tâm giải thoát.’
Nissaraṇañhetaṃ, āvuso, aratiyā yadidaṃ muditācetovimuttī’ti.

5. Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nói như sau:
Idha pana, bhikkhave, bhikkhu evaṃ vadeyya:

‘Ta đã tu tập xả tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần.
‘upekkhā hi kho me cetovimutti bhāvitā bahulīkatā yānīkatā vatthukatā anuṭṭhitā paricitā susamāraddhā;

Tuy vậy, tham tâm vẫn ngự trị tâm ta.’
atha ca pana me rāgo cittaṃ pariyādāya tiṭṭhatī’ti.

Vị ấy cần được nói: “Chớ có như vậy, Hiền giả chớ nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy.
So ‘mā hevan’tissa vacanīyo: ‘māyasmā evaṃ avaca; mā bhagavantaṃ abbhācikkhi, na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ, na hi bhagavā evaṃ vadeyya.

Này Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Nếu tu tập xả tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần; tuy vậy, tham tâm vẫn ngự trị an trú; sự kiện không xảy ra như vậy.
Aṭṭhānametaṃ, āvuso, anavakāso yaṃ upekkhāya cetovimuttiyā bhāvitāya bahulīkatāya yānīkatāya vatthukatāya anuṭṭhitāya paricitāya susamāraddhāya; atha ca panassa rāgo cittaṃ pariyādāya ṭhassati, netaṃ ṭhānaṃ vijjati.

Này Hiền giả, cái này có khả năng giải thoát tham tâm, tức là xả tâm giải thoát.’
Nissaraṇañhetaṃ, āvuso, rāgassa yadidaṃ upekkhācetovimuttī’ti.

6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nói như sau:
Idha pana, bhikkhave, bhikkhu evaṃ vadeyya:

‘Ta đã tu tập vô tướng tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần.
‘animittā hi kho me cetovimutti bhāvitā bahulīkatā yānīkatā vatthukatā anuṭṭhitā paricitā susamāraddhā;

Tuy vậy, thức của ta vẫn tùy niệm tướng.’
atha ca pana me nimittānusāri viññāṇaṃ hotī’ti.

Vị ấy cần phải được nói như sau: “Chớ có như vậy, Hiền giả chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy.
So ‘mā hevan’tissa vacanīyo: ‘māyasmā evaṃ avaca; mā bhagavantaṃ abbhācikkhi, na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ, na hi bhagavā evaṃ vadeyya.

Này Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Nếu tu tập vô tướng tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần; thức vẫn sẽ tùy niệm tướng, an trú; sự kiện không xảy ra như vậy.
Aṭṭhānametaṃ, āvuso, anavakāso yaṃ animittāya cetovimuttiyā bhāvitāya bahulīkatāya yānīkatāya vatthukatāya anuṭṭhitāya paricitāya susamāraddhāya; atha ca panassa nimittānusāri viññāṇaṃ bhavissati, netaṃ ṭhānaṃ vijjati.

Này Hiền giả, cái này có khả năng giải thoát tất cả tướng, tức là vô tướng tâm giải thoát.’
Nissaraṇañhetaṃ, āvuso, sabbanimittānaṃ yadidaṃ animittācetovimuttī’ti.

7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nói như sau:
Idha pana bhikkhave, bhikkhu evaṃ vadeyya:

‘Tôi đã từ bỏ tư tưởng “Tôi là”. Tôi không có tùy quán “Cái này là tôi”.
‘asmīti kho me vigataṃ, ayamahamasmīti ca na samanupassāmi;

Tuy vậy, mũi tên nghi ngờ, do sự xâm chiếm tâm tôi và an trú.’
atha ca pana me vicikicchākathaṅkathāsallaṃ cittaṃ pariyādāya tiṭṭhatī’ti.

Vị ấy cần được nói như sau: “Chớ có như vậy, Hiền giả chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy.
So ‘mā hevan’tissa vacanīyo: ‘māyasmā evaṃ avaca; mā bhagavantaṃ abbhācikkhi, na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ, na hi bhagavā evaṃ vadeyya.

Này Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Với ai đã từ bỏ tư tưởng “Tôi là”, với ai không có tùy quán “Cái này là tôi”.
Aṭṭhānametaṃ, āvuso, anavakāso yaṃ asmīti vigate ayamahamasmīti ca na samanupassato;

Tuy vậy, mũi tên nghi ngờ, do sự xâm chiếm tâm người ấy và an trú; sự kiện không xảy ra như vậy.
atha ca panassa vicikicchākathaṅkathāsallaṃ cittaṃ pariyādāya ṭhassati, netaṃ ṭhānaṃ vijjati.

Này Hiền giả, cái này có khả năng giải thoát mũi tên nghi hoặc do dự, tức là sự nhổ lên kiêu mạn “Tôi là.’
Nissaraṇañhetaṃ, āvuso, vicikicchākathaṅkathāsallassa yadidaṃ asmīti mānasamugghāto’ti.

Này các Tỷ-kheo, đây là sáu pháp xuất ly giới.”
Imā kho, bhikkhave, cha nissāraṇīyā dhātuyo”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt