Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 6.29

Tăng Chi Bộ 6.29
Aṅguttara Nikāya 6.29

3. Phẩm Trên Tất Cả
3. Anuttariyavagga

Udayi
Udāyīsutta

1. Rồi Thế Tôn gọi Tôn giả Udāyī:
Atha kho bhagavā āyasmantaṃ udāyiṃ āmantesi:

“Này Udāyī, có bao nhiêu chỗ để tùy niệm?”
“kati nu kho, udāyi, anussatiṭṭhānānī”ti?

Ðược nói vậy, Tôn giả Udāyī giữ im lặng.
Evaṃ vutte, āyasmā udāyī tuṇhī ahosi.

Lần thứ hai, Thế Tôn bảo Tôn giả Udāyī:
Dutiyampi kho bhagavā āyasmantaṃ udāyiṃ āmantesi:

“Này Udāyī, có bao nhiêu chỗ để tùy niệm?”
“kati nu kho, udāyi, anussatiṭṭhānānī”ti?

Lần thứ hai, Tôn giả Udāyī giữ im lặng.
Dutiyampi kho āyasmā udāyī tuṇhī ahosi.

Lần thứ ba, Thế Tôn bảo Tôn giả Udāyī:
Tatiyampi kho bhagavā āyasmantaṃ udāyiṃ āmantesi:

“Này Udāyī, có bao nhiêu chỗ để tùy niệm?”
“kati nu kho, udāyi, anussatiṭṭhānānī”ti?

Cả hai lần trước và lần thứ ba, Tôn giả Udāyī giữ im lặng.
Tatiyampi kho āyasmā udāyī tuṇhī ahosi.

Rồi Tôn giả Ānanda nói với Tôn giả Udāyī:
Atha kho āyasmā ānando āyasmantaṃ udāyiṃ etadavoca:

“Này Hiền giả Udāyī, Thế Tôn gọi Hiền giả!”
“satthā taṃ, āvuso udāyi, āmantesī”ti.

“Thưa Hiền giả Ānanda, tôi có nghe Thế Tôn gọi.
“Suṇomahaṃ, āvuso ānanda, bhagavato.

Bạch Thế Tôn, khi Tỷ-kheo nhớ đến nhiều đời trước ở quá khứ như một đời, hai đời… vị ấy nhớ nhiều đời trước với các nét đại cương và các chi tiết.
Idha, bhante, bhikkhu anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarati—Seyyathidaṃ—ekampi jātiṃ dvepi jātiyo ...pe.... Iti sākāraṃ sauddesaṃ anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarati.

Bạch Thế Tôn, đây là chỗ để tùy niệm.”
Idaṃ, bhante, anussatiṭṭhānan”ti.

Rồi Thế Tôn bảo Tôn giả Ānanda::
Atha kho bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi:

“Ta đã biết, này Ānanda, kẻ ngu Udāyī này không sống chuyên tâm vào tăng thượng tâm.
“aññāsiṃ kho ahaṃ, ānanda: ‘nevāyaṃ udāyī moghapuriso adhicittaṃ anuyutto viharatī’ti.

Này Ānanda, có bao nhiêu chỗ để tùy niệm?”
Kati nu kho, ānanda, anussatiṭṭhānānī”ti?

“Bạch Thế Tôn, có năm chỗ để tùy niệm. Thế nào là năm?
“Pañca, bhante, anussatiṭṭhānāni. Katamāni pañca?

2. Ở đây, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện… chứng đạt và an trú Thiền thứ ba.
Idha, bhante, bhikkhu vivicceva kāmehi ...pe... tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati.

Bạch Thế Tôn, đây là chỗ để tùy niệm, như vậy tu tập, như vậy làm cho sung mãn, đưa đến hiện tại lạc trú.
Idaṃ, bhante, anussatiṭṭhānaṃ evaṃ bhāvitaṃ evaṃ bahulīkataṃ diṭṭhadhammasukhavihārāya saṃvattati.

3. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo tác ý với tưởng ánh sáng, trú vào tưởng ban ngày. Ngày như thế nào thời đêm như vậy. Ðêm như thế nào thời ngày như vậy.
“Puna caparaṃ, bhante, bhikkhu ālokasaññaṃ manasi karoti, divā saññaṃ adhiṭṭhāti, yathā divā tathā rattiṃ, yathā rattiṃ tathā divā;

Như vậy, với tâm rộng mở, không có hạn chế, vị ấy tu tập tâm với ánh sáng, chiếu sáng.
iti vivaṭena cetasā apariyonaddhena sappabhāsaṃ cittaṃ bhāveti.

Bạch Thế Tôn, đây là chỗ để tùy niệm, tu tập như vậy, làm cho sung mãn, đưa đến chứng đắc tri kiến.
Idaṃ, bhante, anussatiṭṭhānaṃ evaṃ bhāvitaṃ evaṃ bahulīkataṃ ñāṇadassanappaṭilābhāya saṃvattati.

4. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo quán sát thân này từ bàn chân trở lên trên, từ đảnh tóc trở xuống, được da bọc và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này:
Puna caparaṃ, bhante, bhikkhu imameva kāyaṃ uddhaṃ pādatalā adho kesamatthakā tacapariyantaṃ pūraṃ nānappakārassa asucino paccavekkhati:

‘Đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mũ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu.’
‘atthi imasmiṃ kāye kesā lomā nakhā dantā taco, maṃsaṃ nhāru aṭṭhi aṭṭhimiñjaṃ vakkaṃ, hadayaṃ yakanaṃ kilomakaṃ pihakaṃ papphāsaṃ, antaṃ antaguṇaṃ udariyaṃ karīsaṃ, pittaṃ semhaṃ pubbo lohitaṃ sedo medo, assu vasā kheḷo siṅghāṇikā lasikā muttan’ti.

Bạch Thế Tôn, đây là chỗ để tùy niệm, tu tập như vậy, làm sung mãn như vậy, đưa đến đoạn tận tham dục.
Idaṃ, bhante, anussatiṭṭhānaṃ evaṃ bhāvitaṃ evaṃ bahulīkataṃ kāmarāgappahānāya saṃvattati.

5. Lại nữa, bạch Thế Tôn, ví như vị Tỷ-kheo thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa, một ngày hay hai ngày, ba ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh ứ lại, thối ra mủ chảy.
Puna caparaṃ, bhante, bhikkhu seyyathāpi passeyya sarīraṃ sivathikāya chaṭṭitaṃ ekāhamataṃ vā dvīhamataṃ vā tīhamataṃ vā uddhumātakaṃ vinīlakaṃ vipubbakajātaṃ.

Tỷ-kheo ấy đem so sánh với thân này như sau:
So imameva kāyaṃ evaṃ upasaṃharati:

‘Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy.’
‘ayampi kho kāyo evaṃdhammo evaṃbhāvī evaṃanatīto’ti.

Ví như vị ấy thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa, bị các loại quạ ăn; hay bị các loài diều hâu ăn; hay bị các chim kên ăn; hay bị các loài chó ăn; hay bị các loài dã can ăn; hay bị các loài côn trùng ăn.
Seyyathāpi vā pana passeyya sarīraṃ sīvathikāya chaṭṭitaṃ kākehi vā khajjamānaṃ kulalehi vā khajjamānaṃ gijjhehi vā khajjamānaṃ sunakhehi vā khajjamānaṃ siṅgālehi vā khajjamānaṃ vividhehi vā pāṇakajātehi khajjamānaṃ.

Tỷ-kheo ấy đem so sánh với thân này như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy”.
So imameva kāyaṃ evaṃ upasaṃharati: ‘ayampi kho kāyo evaṃdhammo evaṃbhāvī evaṃanatīto’ti.

Ví như vị ấy thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa, với các xương còn liên kết với nhau, còn dính thịt và máu, còn được các đường gân cột lại;
Seyyathāpi vā pana passeyya sarīraṃ sīvathikāya chaṭṭitaṃ aṭṭhikasaṅkhalikaṃ samaṃsalohitaṃ nhārusambandhaṃ ...pe...

với các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn dính thịt, nhưng còn dính máu, còn được các đường gân cột lại;
aṭṭhikasaṅkhalikaṃ nimmaṃsalohitamakkhitaṃ nhārusambandhaṃ …

với các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn thịt và máu, còn được các đường gân cột lại;
aṭṭhikasaṅkhalikaṃ apagatamaṃsalohitaṃ nhārusambandhaṃ.

chỉ còn xương không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia. Ở đây, là xương tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương ống, ở đây là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là xương cánh tay, ở đây là xương cổ, ở đây là xương hàm, ở đây là răng, ở đây là hộp sọ, ở đây là xương trắng màu vỏ ốc, ở đây là xương mục nát, ở đây là xương chất thành đống, ở đây là xương mục nát và vỡ vụn thành bột.
Aṭṭhikāni apagatasambandhāni disāvidisāvikkhittāni, aññena hatthaṭṭhikaṃ aññena pādaṭṭhikaṃ aññena jaṅghaṭṭhikaṃ aññena ūruṭṭhikaṃ aññena kaṭiṭṭhikaṃ aññena phāsukaṭṭhikaṃ aññena piṭṭhikaṇṭakaṭṭhikaṃ aññena khandhaṭṭhikaṃ aññena gīvaṭṭhikaṃ aññena hanukaṭṭhikaṃ aññena dantakaṭṭhikaṃ aññena sīsakaṭāhaṃ, aṭṭhikāni setāni saṅkhavaṇṇappaṭibhāgāni aṭṭhikāni puñjakitāni terovassikāni aṭṭhikāni pūtīni cuṇṇakajātāni.

Tỷ-kheo ấy đem so sánh với thân này như sau: “Thân này bản chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy”.
So imameva kāyaṃ evaṃ upasaṃharati: ‘ayampi kho kāyo evaṃdhammo evaṃbhāvī evaṃanatīto’ti.

Ðây là chỗ để tùy niệm, bạch Thế Tôn, được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy, đưa đến nhổ tận gốc kiêu mạn “Tôi là”.
Idaṃ, bhante, anussatiṭṭhānaṃ evaṃ bhāvitaṃ evaṃ bahulīkataṃ asmimānasamugghātāya saṃvattati.

6. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo bỏ lạc, bỏ khổ… chứng đạt và an trú Thiền thứ tư.
Puna caparaṃ, bhante, bhikkhu sukhassa ca pahānā ...pe... catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati.

Ðây là chỗ để tùy niệm, bạch Thế Tôn, được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy, đưa đến sự thể nhập hoàn toàn các giới sai khác nhau.
Idaṃ, bhante, anussatiṭṭhānaṃ evaṃ bhāvitaṃ evaṃ bahulīkataṃ anekadhātupaṭivedhāya saṃvattati.

Bạch Thế Tôn, đây là năm chỗ để tùy niệm.”
Imāni kho, bhante, pañca anussatiṭṭhānānī”ti.

“Lành thay, lành thay, này Ānanda!
“Sādhu sādhu, ānanda.

Ðây là chỗ tùy niệm thứ sáu, hãy thọ trì ở đây.
Tena hi tvaṃ, ānanda, idampi chaṭṭhaṃ anussatiṭṭhānaṃ dhārehi.

Này Ānanda, Tỷ-kheo chánh niệm đi ra, chánh niệm đi vào, chánh niệm ngồi, chánh niệm nằm, chánh niệm trong khi làm việc.
Idhānanda, bhikkhu satova abhikkamati satova paṭikkamati satova tiṭṭhati satova nisīdati satova seyyaṃ kappeti satova kammaṃ adhiṭṭhāti.

Này Ānanda, đây là chỗ để tùy niệm, như vậy tu tập, như vậy làm cho sung mãn, được đưa đến chánh niệm tỉnh giác.”
Idaṃ, ānanda, anussatiṭṭhānaṃ evaṃ bhāvitaṃ evaṃ bahulīkataṃ satisampajaññāya saṃvattatī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt