Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 6.45

Tăng Chi Bộ 6.45
Aṅguttara Nikāya 6.45

5. Phẩm Dhammika
5. Dhammikavagga

Nghèo Khổ
Iṇasutta

“1. Sự nghèo khổ, này các Tỷ-kheo, có phải là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời?”
“Dāliddiyaṃ, bhikkhave, dukkhaṃ lokasmiṃ kāmabhogino”ti?

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”
“Evaṃ, bhante”.

“Khi một người khổ không có sở hữu, sống túng thiếu, phải mắc nợ, mắc nợ ấy, này các Tỷ-kheo, có phải là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời?”
“Yampi, bhikkhave, daliddo assako anāḷhiko iṇaṃ ādiyati, iṇādānampi, bhikkhave, dukkhaṃ lokasmiṃ kāmabhogino”ti?

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”
“Evaṃ, bhante”.

“Khi một người nghèo khổ không có sở hữu, sống túng thiếu, sau khi mắc nợ, phải chấp nhận tiền lời. Tiền lời, này các Tỷ-kheo, có phải là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời?”
“Yampi, bhikkhave, daliddo assako anāḷhiko iṇaṃ ādiyitvā vaḍḍhiṃ paṭissuṇāti, vaḍḍhipi, bhikkhave, dukkhā lokasmiṃ kāmabhogino”ti?

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”
“Evaṃ, bhante”.

“Khi một người nghèo khổ, này các Tỷ-kheo, không có sở hữu, sống túng thiếu phải chấp nhận tiền lời, và khi thời hạn đến, không trả được tiền lời, người ta hối thúc, đốc thúc người ấy.
“Yampi, bhikkhave, daliddo assako anāḷhiko vaḍḍhiṃ paṭissuṇitvā kālābhataṃ vaḍḍhiṃ na deti, codentipi naṃ;

Sự thối thúc, đốc thúc, này các Tỷ-kheo, có phải là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời?”
codanāpi, bhikkhave, dukkhā lokasmiṃ kāmabhogino”ti?

“Thưa vâng, bạch thế Tôn.”
“Evaṃ, bhante”.

“Khi một người nghèo khổ, này các Tỷ-kheo, không có sở hữu, sống túng thiếu, bị hối thúc, không trả được, người ta theo sát gót truy tìm người ấy.
“Yampi, bhikkhave, daliddo assako anāḷhiko codiyamāno na deti, anucarantipi naṃ;

Bị theo sát gót, bị truy tìm, này các Tỷ-kheo, có phải là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời?”
anucariyāpi, bhikkhave, dukkhā lokasmiṃ kāmabhogino”ti?

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”
“Evaṃ, bhante”.

“Khi một người nghèo khổ, này các Tỷ-kheo, không có sở hữu, sống túng thiếu, bị theo sát gót, bị truy tìm, không trả nợ được, người ta bắt trói người ấy.
“Yampi, bhikkhave, daliddo assako anāḷhiko anucariyamāno na deti, bandhantipi naṃ;

Sự bắt trói, này các Tỷ-kheo, có phải là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời?”
bandhanampi, bhikkhave, dukkhaṃ lokasmiṃ kāmabhogino”ti?

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”
“Evaṃ, bhante”.

“Này các Tỷ-kheo, như vậy, nghèo khổ là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời; mắc nợ cũng là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời; tiền lời cũng là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời; bị hối thúc, đốc thúc cũng là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời; bị theo sát gót, bị truy tìm cũng là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời; bị bắt trói cũng là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời.
“Iti kho, bhikkhave, dāliddiyampi dukkhaṃ lokasmiṃ kāmabhogino, iṇādānampi dukkhaṃ lokasmiṃ kāmabhogino, vaḍḍhipi dukkhā lokasmiṃ kāmabhogino, codanāpi dukkhā lokasmiṃ kāmabhogino, anucariyāpi dukkhā lokasmiṃ kāmabhogino, bandhanampi dukkhaṃ lokasmiṃ kāmabhogino;

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai không có lòng tin trong các thiện pháp, không có lòng hổ thẹn trong các thiện pháp, không có lòng sợ hãi trong các thiện pháp, không có tinh tấn trong các thiện pháp, không có trí tuệ trong các thiện pháp;
evamevaṃ kho, bhikkhave, yassa kassaci saddhā natthi kusalesu dhammesu, hirī natthi kusalesu dhammesu, ottappaṃ natthi kusalesu dhammesu, vīriyaṃ natthi kusalesu dhammesu, paññā natthi kusalesu dhammesu—

người này, này các Tỷ-kheo, được gọi là người nghèo khổ, không có sở hữu, sống túng thiếu trong Luật của bậc Thánh.
ayaṃ vuccati, bhikkhave, ariyassa vinaye daliddo assako anāḷhiko.

2. Nay chính người ấy, này các Tỷ-kheo, nghèo khổ, không có sở hữu, sống túng thiếu, không có lòng tin trong các thiện pháp, không có lòng hổ thẹn trong các thiện pháp, không có lòng sợ hãi trong các thiện pháp, không có tinh tấn trong các thiện pháp, không có trí tuệ trong các thiện pháp, làm ác hạnh về thân, làm ác hạnh về lời, làm ác hạnh về ý nghĩ.
Sa kho so, bhikkhave, daliddo assako anāḷhiko saddhāya asati kusalesu dhammesu, hiriyā asati kusalesu dhammesu, ottappe asati kusalesu dhammesu, vīriye asati kusalesu dhammesu, paññāya asati kusalesu dhammesu, kāyena duccaritaṃ carati, vācāya duccaritaṃ carati, manasā duccaritaṃ carati.

Ta gọi người ấy là người mắc nợ.
Idamassa iṇādānasmiṃ vadāmi.

Người ấy do nhân che giấu thân ác hạnh, khởi lên ác dục, muốn rằng:
So tassa kāyaduccaritassa paṭicchādanahetu pāpikaṃ icchaṃ paṇidahati.

“Mong rằng không ai biết ta làm”, suy nghĩ rằng: “Mong rằng không ai biết ta làm”, nói rằng: “Mong rằng không ai biết ta làm”, cố gắng với tác động về thân, nghĩ rằng: “Mong rằng không ai biết ta làm”. Người ấy, do nhân che giấu ác hạnh về lời… ác hạnh về ý, khởi lên ác dục, muốn rằng: “Mong rằng không ai biết ta làm”, suy nghĩ rằng: “Mong rằng không ai biết ta làm”, Nói rằng : “Mong rằng không ai biết ta làm”, cố gắng với tác động về thân, nghĩ rằng: “Mong rằng không ai biết ta làm”.
‘Mā maṃ jaññū’ti icchati, ‘mā maṃ jaññū’ti saṅkappati, ‘mā maṃ jaññū’ti vācaṃ bhāsati, ‘mā maṃ jaññū’ti kāyena parakkamati. So tassa vacīduccaritassa paṭicchādanahetu ...pe... so tassa manoduccaritassa paṭicchādanahetu ...pe... ‘mā maṃ jaññū’ti kāyena parakkamati.

Ta gọi người ấy là người trả lãi.
Idamassa vaḍḍhiyā vadāmi.

Và các đồng Phạm hạnh thuần thành nói về người ấy như sau:
Tamenaṃ pesalā sabrahmacārī evamāhaṃsu:

‘Tôn giả này có làm như vậy, có sở hành như vậy.’
‘ayañca so āyasmā evaṅkārī evaṃsamācāro’ti.

Ðây Ta nói rằng, người ấy bị hối thúc, đốc thúc.
Idamassa codanāya vadāmi.

Rồi đi đến rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, các ác bất thiện tầm, câu hữu với hối lỗi hiện hành.
Tamenaṃ araññagataṃ vā rukkhamūlagataṃ vā suññāgāragataṃ vā vippaṭisārasahagatā pāpakā akusalavitakkā samudācaranti.

Ðây Ta gọi là bị theo sát gót, bị truy tìm.
Idamassa anucariyāya vadāmi.

3. Nay chính người ấy, này các Tỷ-kheo, nghèo khổ, không có sở hữu, sống túng thiếu, sau khi làm ác hạnh về thân, sau khi làm ác hạnh về lời, sau khi làm ác hạnh về ý, khi thân hoại mạng chung, bị trói buộc trong trói buộc của Ðịa ngục, bị trói buộc trong trói buộc của loài bàng sanh.
Sa kho so, bhikkhave, daliddo assako anāḷhiko kāyena duccaritaṃ caritvā vācāya duccaritaṃ caritvā manasā duccaritaṃ caritvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā nirayabandhane vā bajjhati tiracchānayonibandhane vā.

Và này các Tỷ-kheo, Ta không thấy một trói buộc nào khác lại khắc nghiệt như vậy, lại ác liệt như vậy, lại làm chướng ngại như vậy cho sự chứng đắc vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, này các Tỷ-kheo, giống như sự trói buộc Ðịa ngục hay sự trói buộc các loài bàng sanh.
Nāhaṃ, bhikkhave, aññaṃ ekabandhanampi samanupassāmi evaṃdāruṇaṃ evaṅkaṭukaṃ evaṃantarāyakaraṃ anuttarassa yogakkhemassa adhigamāya, yathayidaṃ, bhikkhave, nirayabandhanaṃ vā tiracchānayonibandhanaṃ vāti.

Nghèo khổ và mắc nợ,
Ðược gọi khổ ở đời!
Kẻ bần cùng mắc nợ,
Thọ dụng, bị tổn hại,
Dāliddiyaṃ dukkhaṃ loke,
iṇādānañca vuccati;
Daliddo iṇamādāya,
bhuñjamāno vihaññati.

Rồi bị người truy lùng,
Cho đến bị trói buộc.
Trói buộc vậy là khổ,
Cho người cầu được dục.
Tato anucaranti naṃ,
bandhanampi nigacchati;
Etañhi bandhanaṃ dukkhaṃ,
kāmalā­bhā­bhi­jappi­naṃ.

Như vậy trong Luật Thánh,
Ai sống không lòng tin,
Không xấu hổ, sợ hãi,
Quyết định chọn ác nghiệp.
Tatheva ariyavinaye,
saddhā yassa na vijjati;
Ahirīko anottappī,
pāpakam­ma­vinib­bayo.

Sau khi làm ác hạnh,
Về thân, lời và ý.
Lại mong muốn được rằng:
"Chớ ai biết ta làm".
Kāyaduccaritaṃ katvā,
vacī­ducca­ritāni ca;
Manoduccaritaṃ katvā,
‘mā maṃ jaññū’ti icchati.

Người ấy khéo che giấu,
Với thân, lời và ý,
Làm tăng trưởng ác nghiệp,
Tại đây, đó, làm nữa.
So saṃsappati kāyena,
vācāya uda cetasā;
Pāpakammaṃ pavaḍḍhento,
tattha tattha punappunaṃ.

Người ác tuệ, ác nghiệp,
Biết việc ác mình làm,
Như kẻ nghèo mắc nợ,
Thọ dụng, bị tổn hại.
So pāpakammo dummedho,
jānaṃ dukkaṭamattano;
Daliddo iṇamādāya,
bhuñjamāno vihaññati.

Những tư tưởng khổ đau
Sanh ra từ hối hận
Vẫn truy tìm người ấy,
Ở làng hoặc ở rừng.
Tato anucaranti naṃ,
saṅkappā mānasā dukhā;
Gāme vā yadi vāraññe,
yassa vippaṭisārajā.

Người ác nghiệp, ác tuệ,
Biết việc ác mình làm,
Hoặc rơi vào bàng sanh,
Hoặc bị trói Ðịa ngục.
So pāpakammo dummedho,
jānaṃ dukkaṭamattano;
Yonimaññataraṃ gantvā,
niraye vāpi bajjhati.

Trói buộc này là khổ.
Bậc trí được giải thoát,
Ai tâm tịnh bố thí,
Với vật dụng đúng pháp,
Etañhi bandhanaṃ dukkhaṃ,
yamhā dhīro pamuccati;
Dhammaladdhehi bhogehi,
dadaṃ cittaṃ pasādayaṃ.

Gieo cầu may hai đường,
Tín tại gia tìm cầu,
Hiện tại được hạnh phúc,
Ðời sau được an lạc.
Như vậy tại gia thí,
Tăng trưởng các công đức.
Ubhayattha kaṭaggāho,
saddhassa gharamesino;
Diṭṭha­dhamma­hi­tatthāya,
sam­parā­ya­su­khāya ca;
Evametaṃ gahaṭṭhānaṃ,
cāgo puññaṃ pavaḍḍhati.

Như vậy trong Luật Thánh
Tín tâm được an trú.
Có xấu hổ, sợ hãi,
Có trí, bảo hộ giới,
Tatheva ariyavinaye,
saddhā yassa patiṭṭhitā;
Hirīmano ca ottappī,
paññavā sīlasaṃvuto.

Bậc ấy, trong Luật Thánh,
Ðược gọi: "Sống an lạc".
Ðược lạc không vật chất,
An trú trên tánh xả.
Eso kho ariyavinaye,
‘sukhajīvī’ti vuccati;
Nirāmisaṃ sukhaṃ laddhā,
upekkhaṃ adhitiṭṭhati.

Từ bỏ năm triền cái,
Thường siêng năng, tinh cần,
Chứng Thiền định, nhất tâm,
Thận trọng, giữ chánh niệm.
Pañca nīvaraṇe hitvā,
niccaṃ āraddhavīriyo;
Jhānāni upasampajja,
ekodi nipako sato.

Biết như thật là vậy,
Ðoạn diệt mọi kiết sử,
Hoàn toàn không chấp thủ,
Chơn chánh, tâm giải thoát,
Evaṃ ñatvā yathābhūtaṃ,
sabba­saṃ­yoja­nak­khaye;
Sabbaso anupādāya,
sammā cittaṃ vimuccati.

Với chánh giải thoát ấy,
Nếu trí như vậy khởi:
"Bất động ta giải thoát,
Ðoạn diệt hữu kiết sử".
Tassa sammā vimuttassa,
ñāṇañce hoti tādino;
‘Akuppā me vimuttī’ti,
­bhavasaṃ­yoja­nak­khaye.

Trí này, trí tối thượng,
Lạc này, lạc vô thượng,
Không sầu, không trần cấu,
Ðược an ổn, (giải thoát),
Trạng thái không nợ này,
Ðược xem là tối thượng.
Etaṃ kho paramaṃ ñāṇaṃ,
etaṃ sukha­ma­nutta­raṃ;
Asokaṃ virajaṃ khemaṃ,
etaṃ ānaṇyamuttaman”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt