Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 7.22

Tăng Chi Bộ 7.22
Aṅguttara Nikāya 7.22

3. Phẩm Vajji (Bạt-kỳ)
3. Vajjisattakavagga

Vassakara
Vassakārasutta

1. Như vầy tôi nghe:
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời, Thế Tôn trú ở Rājagaha (Vương Xá), trên núi Gijjhakūṭa (Linh Thứu).
ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate.

Lúc bấy giờ, Ajātasattu, con bà Videhi vua nước Magadha muốn chinh phạt dân chúng Vajji.
Tena kho pana samayena rājā māgadho ajātasattu vedehiputto vajjī abhiyātukāmo hoti.

Vua nói như sau:
So evamāha:

“Ta quyết chinh phạt dân Vajji này, dầu họ có uy quyền, có hùng mạnh. Ta quyết làm cỏ dân Vajji. Ta sẽ tiêu diệt dân Vajji. Ta sẽ làm cho dân Vajji bị hoại vong!”
“ahaṃ hime vajjī evaṃmahiddhike evaṃmahānubhāve ucchecchāmi, vajjī vināsessāmi, vajjī anayabyasanaṃ āpādessāmī”ti.

Rồi Ajātasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha nói với Bà-la-môn Vassakāra, đại thần nước Magadha:
Atha kho rājā māgadho ajātasattu vedehiputto vassakāraṃ brāhmaṇaṃ māgadhamahāmattaṃ āmantesi:

“Này Bà-la-môn, hãy đi đến Thế Tôn, và nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ chân Ngài, vấn an Ngài có ít bệnh, ít não, khinh an, khỏe mạnh, lạc trú:
“ehi tvaṃ, brāhmaṇa, yena bhagavā tenupasaṅkama; upasaṅkamitvā mama vacanena bhagavato pāde sirasā vandāhi, appābādhaṃ appātaṅkaṃ lahuṭṭhānaṃ balaṃ phāsuvihāraṃ puccha:

‘Bạch Thế Tôn, Ajātasattu con bà Videhi, vua nước Magadha cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, vấn an Ngài ít bệnh, ít não, khinh an, lạc trú’.
‘rājā, bhante, māgadho ajātasattu vedehiputto bhagavato pāde sirasā vandati, appābādhaṃ appātaṅkaṃ lahuṭṭhānaṃ balaṃ phāsuvihāraṃ pucchatī’ti.

Và khanh bạch tiếp:
Evañca vadehi:

‘Bạch Thế Tôn, Ajātasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha muốn chinh phạt dân Vajji.
‘rājā, bhante, māgadho ajātasattu vedehiputto vajjī abhiyātukāmo.

Vua tự nói:
So evamāha—

“Ta quyết chinh phạt dân Vajji này, dầu họ có uy quyền, có hùng mạnh. Ta quyết làm cỏ dân Vajji. Ta sẽ tiêu diệt dân Vajji. Ta sẽ làm cho dân Vajji bị hoại vong!”’
ahaṃ hime vajjī evaṃmahiddhike evaṃmahānubhāve ucchecchāmi, vajjī vināsessāmi, vajjī anayabyasanaṃ āpādessāmī’ti.

Thế Tôn trả lời khanh thế nào, hãy ghi nhớ kỹ và nói lại ta biết.
Yathā te bhagavā byākaroti, taṃ sādhukaṃ uggahetvā mama āroceyyāsi.

Các bậc Như Lai không bao giờ nói không như thật.”
Na hi tathāgatā vitathaṃ bhaṇantī”ti.

“Tâu Ðại vương, xin vâng,” Bà-la-môn Vassakāra, đại thần nước Magadha vâng theo lời dạy của Ajātasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha, cho thắng những cỗ xe thù thắng, tự mình cỡi lên một chiếc, cùng với các cỗ xe ấy đi ra khỏi Vương Xá, đến tại núi Linh Thứu, đi xe đến chỗ còn dùng xe được, rồi xuống xe đi bộ đến chỗ Thế Tôn; sau khi đến, liền nói với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Vassakāra, đại thần nước Magadha bạch Thế Tôn:
“Evaṃ, bho”ti kho vassakāro brāhmaṇo māgadhamahāmatto rañño māgadhassa ajātasattussa vedehiputtassa paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho vassakāro brāhmaṇo māgadhamahāmatto bhagavantaṃ etadavoca:

“Thưa Tôn giả Gotama, Ajātasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả Gotama, vấn an Ngài có ít bệnh, ít não, khinh an, lạc trú.
“rājā, bho gotama, māgadho ajātasattu vedehiputto bhoto gotamassa pāde sirasā vandati, appābādhaṃ appātaṅkaṃ lahuṭṭhānaṃ balaṃ phāsuvihāraṃ pucchati.

Thưa Tôn giả Gotama, Ajātasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha muốn chinh phạt dân xứ Vajji.
Rājā, bho gotama, māgadho ajātasattu vedehiputto vajjī abhiyātukāmo.

Vua tự nói:
So evamāha:

‘Ta quyết chinh phạt dân Vajji này, dù họ có uy quyền, có hùng mạnh. Ta quyết làm cỏ dân Vajji. Ta sẽ tiêu diệt dân Vajji. Ta sẽ làm cho dân Vajji bị hoại vong!’”
‘ahaṃ hime vajjī evaṃmahiddhike evaṃmahānubhāve ucchecchāmi, vajjī vināsessāmi, vajjī anayabyasanaṃ āpādessāmī’”ti.

2. Lúc bấy giờ, Tôn giả Ānanda đứng quạt phía sau lưng Thế Tôn. Thế Tôn nói với Tôn giả Ānanda:
Tena kho pana samayena āyasmā ānando bhagavato piṭṭhito ṭhito hoti bhagavantaṃ bījayamāno. Atha kho bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi:

“Này Ānanda, Thầy có nghe dân Vajji thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau không?”
“kinti te, ānanda, sutaṃ: ‘vajjī abhiṇhaṃ sannipātā sannipātabahulā’”ti?

“Bạch Thế Tôn, con có nghe ‘dân Vajji thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau.’”
“Sutaṃ metaṃ, bhante: ‘vajjī abhiṇhaṃ sannipātā sannipātabahulā’”ti.

“Này Ānanda, khi nào dân Vajji thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau, thời này Ānanda, dân Vajji sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
“Yāvakīvañca, ānanda, vajjī abhiṇhaṃ sannipātā bhavissanti sannipātabahulā; vuddhiyeva, ānanda, vajjīnaṃ pāṭikaṅkhā, no parihāni.

Này Ānanda, Thầy có biết dân Vajji tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết không?”
Kinti te, ānanda, sutaṃ: ‘vajjī samaggā sannipatanti, samaggā vuṭṭhahanti, samaggā vajjikaraṇīyāni karontī’”ti?

“Bạch Thế Tôn, con có nghe dân chúng Vajji tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết và làm việc trong niệm đoàn kết.”
“Sutaṃ metaṃ, bhante: ‘vajjī samaggā sannipatanti, samaggā vuṭṭhahanti, samaggā vajjikaraṇīyāni karontī’”ti.

“Này Ānanda, khi nào dân Vajji tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết và làm việc trong niệm đoàn kết, thời này Ānanda, dân Vajji sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
“Yāvakīvañca, ānanda, vajjī samaggā sannipatissanti, samaggā vuṭṭhahissanti, samaggā vajjikaraṇīyāni karissanti; vuddhiyeva, ānanda, vajjīnaṃ pāṭikaṅkhā, no parihāni.

Này Ānanda, Thầy có nghe dân Vajji không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân Vajji như đã ban hành thời xưa không?”
Kinti te, ānanda, sutaṃ: ‘vajjī apaññattaṃ na paññāpenti, paññattaṃ na samucchindanti, yathāpaññatte porāṇe vajjidhamme samādāya vattantī’”ti?

“Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajji không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân Vajji thuở xưa.”
“Sutaṃ metaṃ, bhante: ‘vajjī apaññattaṃ na paññāpenti, paññattaṃ na samucchindanti, yathāpaññatte porāṇe vajjidhamme samādāya vattantī’”ti.

“Này Ānanda, khi nào dân Vajji không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân Vajji như đã ban hành thuở xưa, thời này Ānanda, dân Vajji sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
“Yāvakīvañca, ānanda, vajjī apaññattaṃ na paññāpessanti, paññattaṃ na samucchindissanti, yathāpaññatte porāṇe vajjidhamme samādāya vattissanti; vuddhiyeva, ānanda, vajjīnaṃ pāṭikaṅkhā, no parihāni.

Này Ānanda, Thầy có nghe dân Vajji tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão Vajji, và nghe theo lời dạy của những vị này không?”
Kinti te, ānanda, sutaṃ: ‘vajjī ye te vajjīnaṃ vajjimahallakā te sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjenti, tesañca sotabbaṃ maññantī’”ti?

“Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajji tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão Vajji, và nghe theo lời dạy của những vị này.”
“Sutaṃ metaṃ, bhante: ‘vajjī ye te vajjīnaṃ vajjimahallakā te sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjenti, tesañca sotabbaṃ maññantī’”ti.

“Này Ānanda, khi nào dân Vajji tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão Vajji, và nghe theo lời dạy của những vị này, thời dân Vajji sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
“Yāvakīvañca, ānanda, vajjī ye te vajjīnaṃ vajjimahallakā te sakkarissanti garuṃ karissanti mānessanti pūjessanti, tesañca sotabbaṃ maññissanti; vuddhiyeva, ānanda, vajjīnaṃ pāṭikaṅkhā, no parihāni.

Này Ānanda, Thầy có nghe dân Vajji không bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ Vajji phải sống với mình không?”
Kinti te, ānanda, sutaṃ: ‘vajjī yā tā kulitthiyo kulakumāriyo tā na okassa pasayha vāsentī’”ti?

“Bạch Thế Tôn, con có nghe ‘dân Vajji không có bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ Vajji phải sống với mình.’”
“Sutaṃ metaṃ, bhante: ‘vajjī yā tā kulitthiyo kulakumāriyo tā na okassa pasayha vāsentī’”ti.

“Này Ānanda, khi nào dân Vajji không có bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ Vajji phải sống với mình, thời này Ānanda, dân Vajji sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
“Yāvakīvañca, ānanda, vajjī yā tā kulitthiyo kulakumāriyo tā na okassa pasayha vāsessanti; vuddhiyeva, ānanda, vajjīnaṃ pāṭikaṅkhā, no parihāni.

Này Ānanda, Thầy có nghe dân Vajji tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu của Vajji ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp không?”
Kinti te, ānanda, sutaṃ: ‘vajjī yāni tāni vajjīnaṃ vajjicetiyāni abbhantarāni ceva bāhirāni ca tāni sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjenti, tesañca dinnapubbaṃ katapubbaṃ dhammikaṃ baliṃ no parihāpentī’”ti?

“Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajji tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu của Vajji ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp.”
“Sutaṃ metaṃ, bhante: ‘vajjī yāni tāni vajjīnaṃ vajjicetiyāni abbhantarāni ceva bāhirāni ca tāni sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjenti, tesañca dinnapubbaṃ katapubbaṃ dhammikaṃ baliṃ no parihāpentī’”ti.

“Này Ānanda, khi nào dân Vajji tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu của Vajji ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp, thời này Ānanda, dân Vajji sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
“Yāvakīvañca, ānanda, vajjī yāni tāni vajjīnaṃ vajjicetiyāni abbhantarāni ceva bāhirāni ca tāni sakkarissanti garuṃ karissanti mānessanti pūjessanti, tesañca dinnapubbaṃ katapubbaṃ dhammikaṃ baliṃ no parihāpessanti; vuddhiyeva, ānanda, vajjīnaṃ pāṭikaṅkhā, no parihāni.

Này Ānanda, Thầy có nghe dân Vajji bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán ở tại Vajji, khiến các vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A-la-hán đã đến được sống an lạc không?”
Kinti te, ānanda, sutaṃ: ‘vajjīnaṃ arahantesu dhammikā rakkhāvaraṇagutti susaṃvihitā—kinti anāgatā ca arahanto vijitaṃ āgaccheyyuṃ, āgatā ca arahanto vijite phāsuṃ vihareyyun’”ti?

“Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajji bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán ở tại Vajji, khiến các vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A-la-hán đã đến được sống an lạc.”
“Sutaṃ metaṃ, bhante: ‘vajjīnaṃ arahantesu dhammikā rakkhāvaraṇagutti susaṃvihitā bhavissati—kinti anāgatā ca arahanto vijitaṃ āgaccheyyuṃ, āgatā ca arahanto vijite phāsuṃ vihareyyun’”ti.

“Này Ānanda, khi nào dân Vajji bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán ở tại Vajji, khiến các vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A-la-hán đã đến được sống an lạc, thời này Ānanda, dân Vajji sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.”
“Yāvakīvañca, ānanda, vajjīnaṃ arahantesu dhammikā rakkhāvaraṇagutti susaṃvihitā bhavissati: ‘kinti anāgatā ca arahanto vijitaṃ āgaccheyyuṃ, āgatā ca arahanto vijite phāsuṃ vihareyyun’ti; vuddhiyeva, ānanda, vajjīnaṃ pāṭikaṅkhā, no parihānī”ti.

3. Rồi Thế Tôn nói với Bà-la-môn Vassakāra đại thần nước Magadha:
Atha kho bhagavā vassakāraṃ brāhmaṇaṃ māgadhamahāmattaṃ āmantesi:

“Này Bà-la-môn, một thời, Ta sống ở Vesālī, tại tự miếu Sārandada.
“ekamidāhaṃ, brāhmaṇa, samayaṃ vesāliyaṃ viharāmi sārandade cetiye.

Này Bà-la-môn, ta dạy cho dân Vajji bảy pháp không bị suy giảm này.
Tatrāhaṃ, brāhmaṇa, vajjīnaṃ ime satta aparihāniye dhamme desesiṃ.

Này Bà-la-môn, khi nào bảy pháp không bị suy giảm, được duy trì giữa dân Vajji, khi nào dân Vajji được giảng dạy bảy pháp không bị suy giảm này, thời này Bà-la-môn, dân Vajji sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.”
Yāvakīvañca, brāhmaṇa, ime satta aparihāniyā dhammā vajjīsu ṭhassanti, imesu ca sattasu aparihāniyesu dhammesu vajjī sandississanti; vuddhiyeva, brāhmaṇa, vajjīnaṃ pāṭikaṅkhā, no parihānī”ti.

4. Khi được nói vậy, Bà-la-môn Vassakāra, vị đại thần nước Magadha bạch Thế Tôn: ‘Thưa Tôn giả Gotama, nếu dân Vajji chỉ hội đủ một pháp không bị suy giảm này, thời dân Vajji nhất định được lớn mạnh, không bị suy giảm;
“Ekamekenapi, bho gotama, aparihāniyena dhammena samannāgatānaṃ vajjīnaṃ vuddhiyeva pāṭikaṅkhā, no parihāni;

huống nữa là đủ các bảy pháp không bị suy giảm.
ko pana vādo sattahi aparihāniyehi dhammehi.

Thưa Tôn giả Gotama, Ajātasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha không thể đánh bại dân Vajji ở chiến trận, trừ phi dùng ngoại giao hay kế ly gián.
Akaraṇīyā ca, bho gotama, vajjī raññā māgadhena ajātasattunā vedehiputtena yadidaṃ yuddhassa, aññatra upalāpanāya, aññatra mithubhedā.

Thưa Tôn giả Gotama, nay chúng con phải đi, chúng con có nhiều việc và có nhiều bổn phận.”
Handa ca dāni mayaṃ, bho gotama, gacchāma, bahukiccā mayaṃ bahukaraṇīyā”ti.

“Này Bà-la-môn, hãy làm những gì Ông nghĩ là hợp thời.”
“Yassadāni tvaṃ, brāhmaṇa, kālaṃ maññasī”ti.

Rồi Bà-la-môn Vassakāra, vị đại thần nước Magadha hoan hỷ tán thán lời dạy của Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Atha kho vassakāro brāhmaṇo māgadhamahāmatto bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā pakkāmīti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt