Tăng Chi Bộ 7.56
Aṅguttara Nikāya 7.56
6. Phẩm Không Tuyên Bố
6. Abyākatavagga
Tissa
Tissabrahmāsutta
1. Như vầy tôi nghe:
Evaṃ me sutaṃ—
Một thời, Thế Tôn trú ở Rājagaha (Vương Xá), tại núi Linh Thứu.
ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate.
Bấy giờ có hai Thiên nhân sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Linh Thứu, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Sau khi đứng một bên, một Thiên nhân bạch Thế Tôn:
Atha kho dve devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ gijjhakūṭaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Ekamantaṃ ṭhitā kho ekā devatā bhagavantaṃ etadavoca:
“Bạch Thế Tôn, những Tỷ-kheo-ni này được giải thoát.”
“etā, bhante, bhikkhuniyo vimuttā”ti.
Thiên nhân khác bạch Thế Tôn:
Aparā devatā bhagavantaṃ etadavoca:
“Bạch Thế Tôn, những Tỷ-kheo-ni này khéo giải thoát, không có dư y.”
“etā, bhante, bhikkhuniyo anupādisesā suvimuttā”ti.
Các Thiên nhân ấy nói như vậy. Bậc Ðạo Sư chấp nhận.
Idamavocuṃ tā devatā. Samanuñño satthā ahosi.
Rồi các Thiên nhân ấy, sau khi được biết: “Bậc Ðạo Sư đã chấp nhận”, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, rồi biến mất tại chỗ.
Atha kho tā devatā “samanuñño satthā”ti bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyiṃsu.
Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã mãn, bảo các Tỷ-kheo:
Atha kho bhagavā tassā rattiyā accayena bhikkhū āmantesi:
Ðêm nay, này các Tỷ-kheo, có hai Thiên nhân sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Linh Thứu, đi đến Ta, sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Sau khi đứng một bên, một Thiên nhân bạch với Ta:
“imaṃ, bhikkhave, rattiṃ dve devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ gijjhakūṭaṃ obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Ekamantaṃ ṭhitā kho, bhikkhave, ekā devatā maṃ etadavoca:
‘Bạch Thế Tôn, những Tỷ-kheo-ni này được giải thoát’.
‘etā, bhante, bhikkhuniyo vimuttā’ti.
Thiên nhân khác bạch với Ta:
Aparā devatā maṃ etadavoca:
‘Bạch Thế Tôn, những Tỷ-kheo-ni này khéo giải thoát, không có dư y’.
‘etā, bhante, bhikkhuniyo anupādisesā suvimuttā’ti.
Này các Tỷ-kheo, các Thiên nhân ấy nói như vậy.
Idamavocuṃ, bhikkhave, tā devatā.
Sau khi nói như vậy, các Thiên nhân ấy đảnh lễ Ta, thân bên hữu hướng về Ta, rồi biến mất tại chỗ.
Idaṃ vatvā maṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyiṃsū”ti.
2. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahāmoggallāna ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu.
Tena kho pana samayena āyasmā mahāmoggallāno bhagavato avidūre nisinno hoti.
Rồi Tôn giả Mahāmoggallāna suy nghĩ như sau:
Atha kho āyasmato mahāmoggallānassa etadahosi:
“Những Thiên nhân nào có trí như sau:
“katamesānaṃ kho devānaṃ evaṃ ñāṇaṃ hoti:
‘Có dư y là có dư y’ hay ‘không có dư y là không có dư y’”.
‘saupādisese vā saupādisesoti, anupādisese vā anupādiseso’”ti?
Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo tên là Tissa mạng chung không bao lâu và được sanh lên một Phạm thiên giới.
Tena kho pana samayena tisso nāma bhikkhu adhunākālaṅkato aññataraṃ brahmalokaṃ upapanno hoti.
Tại đấy, họ được biết vị ấy là:
Tatrāpi naṃ evaṃ jānanti:
Phạm thiên Tissa, có đại thần lực, có đại uy lực.
“tisso brahmā mahiddhiko mahānubhāvo”ti.
Rồi Tôn giả Mahāmoggallāna, như người lực sĩ duỗi cánh đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra; cũng vậy, biến mất ở Linh Thứu và hiện ra ở Phạm thiên giới ấy.
Atha kho āyasmā mahāmoggallāno—seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya; evamevaṃ—gijjhakūṭe pabbate antarahito tasmiṃ brahmaloke pāturahosi.
Phạm thiên Tissa thấy Tôn giả Mahāmoggallāna từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Tôn giả Mahāmoggallāna:
Addasā kho tisso brahmā āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvā āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ etadavoca:
“Hiền giả Moggallāna, hãy đến đây!
“ehi kho, mārisa moggallāna;
Thiện lai Hiền giả Moggallāna!
svāgataṃ, mārisa moggallāna.
Ðã lâu, Hiền giả Moggallāna mới tạo cơ hội này, tức là đến đây.
Cirassaṃ kho, mārisa moggallāna, imaṃ pariyāyamakāsi, yadidaṃ idhāgamanāya.
Hãy ngồi, Hiền giả Moggallāna, đây là chỗ ngồi đã soạn sẵn!”
Nisīda, mārisa moggallāna, idamāsanaṃ paññattan”ti.
Tôn giả Mahāmoggallāna ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn.
Nisīdi kho āyasmā mahāmoggallāno paññatte āsane.
Phạm thiên Tissa đảnh lễ Tôn giả Mahāmoggallāna rồi ngồi xuống một bên.
Tissopi kho brahmā āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Tôn giả Mahāmoggallāna nói với Phạm thiên Tissa đang ngồi xuống một bên:
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho tissaṃ brahmānaṃ āyasmā mahāmoggallāno etadavoca:
“Những Thiên nhân nào có trí như sau: ‘Có dư y là có dư y’ hay ‘không có dư y là không có dư y’”.
“katamesānaṃ kho, tissa, devānaṃ evaṃ ñāṇaṃ hoti: ‘saupādisese vā saupādisesoti, anupādisese vā anupādiseso’”ti?
“Thưa Hiền giả Moggallāna, Phạm chúng thiên có trí như sau: ‘Có dư y là có dư y’ hay ‘không có dư y là không có dư y’”.
“Brahmakāyikānaṃ kho, mārisa moggallāna, devānaṃ evaṃ ñāṇaṃ hoti: ‘saupādisese vā saupādisesoti, anupādisese vā anupādiseso’”ti.
“Này Tissa, có phải tất cả chư Thiên ở Phạm chúng thiên đều có trí như vậy: ‘Có dư y là có dư y’ hay ‘không có dư y là không có dư y’?”
“Sabbesaññeva kho, tissa, brahmakāyikānaṃ devānaṃ evaṃ ñāṇaṃ hoti: ‘saupādisese vā saupādisesoti, anupādisese vā anupādiseso’”ti?
“3. Thưa Hiền giả, không phải tất cả chư Thiên ở Phạm chúng thiên đều có trí như vậy: ‘Có dư y là có dư y’ hay ‘không có dư y là không có dư y’.
“Na kho, mārisa moggallāna, sabbesaṃ brahmakāyikānaṃ devānaṃ evaṃ ñāṇaṃ hoti: ‘saupādisese vā saupādisesoti, anupādisese vā anupādiseso’ti.
Thưa Hiền giả Moggallāna, những Thiên nhân nào ở Phạm chúng thiên bằng lòng với tuổi thọ Phạm thiên, bằng lòng với dung sắc Phạm thiên, với an lạc Phạm thiên, với danh tiếng Phạm thiên, với uy quyền Phạm thiên, không như thật rõ biết sự xuất ly cao hơn trạng thái ấy.
Ye kho te, mārisa moggallāna, brahmakāyikā devā brahmena āyunā santuṭṭhā brahmena vaṇṇena brahmena sukhena brahmena yasena brahmena ādhipateyyena santuṭṭhā, te uttari nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānanti.
Những vị ấy không có trí như sau: ‘Có dư y là có dư y’ hay ‘không có dư y là không có dư y’.
Tesaṃ na evaṃ ñāṇaṃ hoti: ‘saupādisese vā saupādisesoti, anupādisese vā anupādiseso’ti.
Và thưa Hiền giả Moggallāna, những Thiên nhân nào ở Phạm chúng thiên, không bằng lòng với tuổi thọ Phạm thiên, không bằng lòng với dung sắc Phạm thiên, với an lạc Phạm thiên, với danh tiếng Phạm thiên, với uy quyền Phạm thiên, như thật rõ biết sự xuất ly cao hơn trạng thái ấy;
Ye ca kho te, mārisa moggallāna, brahmakāyikā devā brahmena āyunā asantuṭṭhā, brahmena vaṇṇena brahmena sukhena brahmena yasena brahmena ādhipateyyena asantuṭṭhā, te ca uttari nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ pajānanti.
những vị ấy có trí như sau: ‘Có dư y là có dư y’ hay ‘không có dư y là không có dư y’.
Tesaṃ evaṃ ñāṇaṃ hoti: ‘saupādisese vā saupādisesoti, anupādisese vā anupādiseso’ti.
4. Ở đây, thưa Hiền giả Moggallāna, Tỷ-kheo được giải thoát cả hai phần.
Idha, mārisa moggallāna, bhikkhu ubhatobhāgavimutto hoti.
Chư Thiên ấy biết về vị ấy như sau:
Tamenaṃ te devā evaṃ jānanti:
‘Tôn giả này được giải thoát cả hai phần.
‘ayaṃ kho āyasmā ubhatobhāgavimutto.
Khi thân còn tồn tại, các Thiên nhân và loài Người thấy được vị ấy.
Yāvassa kāyo ṭhassati tāva naṃ dakkhanti devamanussā.
Khi thân hoại, các Thiên nhân và loài người không thấy được vị ấy.’
Kāyassa bhedā na naṃ dakkhanti devamanussā’ti.
Như vậy, thưa Hiền giả Moggallāna, các Thiên nhân ấy, có trí như sau: ‘Có dư y là có dư y’ hay ‘không có dư y là không có dư y’.
Evampi kho, mārisa moggallāna, tesaṃ devānaṃ ñāṇaṃ hoti: ‘saupādisese vā saupādisesoti, anupādisese vā anupādiseso’ti.
5. Nhưng ở đây, thưa Hiền giả Moggallāna, Tỷ-kheo được tuệ giải thoát.
Idha pana, mārisa moggallāna, bhikkhu paññāvimutto hoti.
Chư Thiên ấy biết về vị ấy như sau: ‘Tôn giả này được tuệ giải thoát’.
Tamenaṃ te devā evaṃ jānanti: ‘ayaṃ kho āyasmā paññāvimutto.
Khi thân còn tồn tại, các Thiên nhân và loài Người thấy được vị ấy.
Yāvassa kāyo ṭhassati tāva naṃ dakkhanti devamanussā.
Khi thân hoại, các Thiên nhân và loài Người không thấy được vị ấy’.
Kāyassa bhedā na naṃ dakkhanti devamanussā’ti.
Như vậy, thưa Hiền giả Moggallāna, các Thiên nhân ấy có trí như sau: ‘Có dư y là có dư y’ hay ‘không có dư y là không có dư y’.
Evampi kho, mārisa moggallāna, tesaṃ devānaṃ ñāṇaṃ hoti: ‘saupādisese vā saupādisesoti, anupādisese vā anupādiseso’ti.
6. Nhưng ở đây, thưa Hiền giả Moggallāna, Tỷ-kheo thân chứng.
Idha pana, mārisa moggallāna, bhikkhu kāyasakkhī hoti.
Chư Thiên ấy biết về vị ấy như sau:
Tamenaṃ devā evaṃ jānanti:
‘”Tôn giả này là vị thân chứng.
‘ayaṃ kho āyasmā kāyasakkhī.
Rất có thể Tôn giả này, do sử dụng các sàng tọa thích đáng, do thân cận các thiện bằng hữu, do chế ngự các căn, vị ấy có thể ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, mà các thiện nam tử vì mục đích ấy chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình’.
Appeva nāma ayamāyasmā anulomikāni senāsanāni paṭisevamāno kalyāṇamitte bhajamāno indriyāni samannānayamāno—yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti, tadanuttaraṃ—brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihareyyā’ti.
Như vậy, thưa Hiền giả Moggallāna, các Thiên nhân ấy có trí như sau: ‘Có dư y là có dư y’ hay ‘không có dư y là không có dư y’.
Evampi kho, mārisa moggallāna, tesaṃ devānaṃ ñāṇaṃ hoti: ‘saupādisese vā saupādisesoti, anupādisese vā anupādiseso’ti.
7. Nhưng ở đây, thưa Hiền giả Moggallāna, Tỷ-kheo kiến chí …
Idha pana, mārisa moggallāna, bhikkhu diṭṭhippatto hoti ...pe...
tín giải thoát …
saddhāvimutto hoti ...pe...
tùy pháp hành.
dhammānusārī hoti.
Chư Thiên ấy biết về vị ấy như sau:
Tamenaṃ te devā evaṃ jānanti:
‘Tôn giả này là vị tùy pháp hành.
‘ayaṃ kho āyasmā dhammānusārī.
Rất có thể Tôn giả này, do sử dụng các sàng tọa thích đáng, do thân cận các thiện bằng hữu, do chế ngự các căn, vị ấy có thể ngay trong hiện tại tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, mà các thiện nam tử vì mục đích ấy chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình’.
Appeva nāma ayamāyasmā anulomikāni senāsanāni paṭisevamāno kalyāṇamitte bhajamāno indriyāni samannānayamāno—yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti, tadanuttaraṃ—brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihareyyā’ti.
Như vậy, thưa Hiền giả Moggallāna, các Thiên nhân ấy có trí như sau: ‘Có dư y là có dư y’ hay ‘không có dư y là không có dư y’.
Evampi kho, mārisa moggallāna, tesaṃ devānaṃ ñāṇaṃ hoti: ‘saupādisese vā saupādisesoti, anupādisese vā anupādiseso’”ti.
8. Rồi Tôn giả Moggallāna hoan hỷ tín thọ lời nói của Phạm thiên Tissa. Như một người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra; cũng vậy, Tôn giả biến mất ở Phạm thiên giới, hiện ra ở núi Gijjihakùta.
Atha kho āyasmā mahāmoggallāno tissassa brahmuno bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā—seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya; evamevaṃ—brahmaloke antarahito gijjhakūṭe pabbate pāturahosi.
Rồi Tôn giả, Mahāmoggallāna đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho āyasmā mahāmoggallāno yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahāmoggallāna, đem câu chuyện nói với Phạm thiên Tissa như thế nào, tường thuật hết tất cả cho Thế Tôn nghe.
Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā mahāmoggallāno yāvatako ahosi tissena brahmunā saddhiṃ kathāsallāpo taṃ sabbaṃ bhagavato ārocesi.
“Nhưng này Moggallāna, Phạm thiên Tissa không nói cho Thầy về hạng người vô tướng trú thứ bảy.”
“Na hi pana te, moggallāna, tisso brahmā sattamaṃ animittavihāriṃ puggalaṃ deseti”.
“Bạch Thế Tôn, nay là thời, bạch Thiện Thệ, nay là thời.
“Etassa, bhagavā, kālo, etassa, sugata, kālo.
Thế Tôn nói về người trú vô tướng thứ bảy. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.”
Yaṃ bhagavā sattamaṃ animittavihāriṃ puggalaṃ deseyya. Bhagavato sutvā bhikkhū dhāressantī”ti.
“Này Moggallāna, hãy lắng nghe; ta sẽ nói”
“Tena hi, moggallāna, suṇāhi, sādhukaṃ manasi karohi; bhāsissāmī”ti.
“Thưa vâng, bạch Thế Tôn,” Tôn giả Mahāmoggallāna vâng đáp Thế Tôn.
“Evaṃ, bhante”ti kho āyasmā mahāmoggallāno bhagavato paccassosi.
Thế Tôn nói như sau:
Bhagavā etadavoca:
“9. Ở đây, này Moggallāna, Tỷ-kheo không tác ý tất cả tướng, chứng đạt vô tướng tâm định và an trú.
“Idha, moggallāna, bhikkhu sabbanimittānaṃ amanasikārā animittaṃ cetosamādhiṃ upasampajja viharati.
Các Thiên nhân ấy biết về vị ấy như sau:
Tamenaṃ te devā evaṃ jānanti:
‘Tôn giả này, do không tác ý tất cả tướng, chứng đạt và an trú vô tướng tâm định.
‘ayaṃ kho āyasmā sabbanimittānaṃ amanasikārā animittaṃ cetosamādhiṃ upasampajja viharati.
Rất có thể Tôn giả này do sử dụng các sàng tọa thích đáng, do thân cận các thiện bằng hữu, do chế ngự các căn, vị ấy có thể ngay trong hiện tại tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú vô thượng cứu cánh Phạm hạnh mà các thiện nam tử vì mục đích ấy chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình’.
Appeva nāma ayamāyasmā anulomikāni senāsanāni paṭisevamāno kalyāṇamitte bhajamāno indriyāni samannānayamāno—yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti, tadanuttaraṃ—brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihareyyā’ti.
Như vậy, này Moggallāna, các Thiên nhân ấy có trí ấy như sau: ‘Có dư y là có dư y’ hay ‘không có dư y là không có dư y‘”.
Evaṃ kho, moggallāna, tesaṃ devānaṃ ñāṇaṃ hoti: ‘saupādisese vā saupādisesoti, anupādisese vā anupādiseso’”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt