Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 8.10

Tăng Chi Bộ 8.10
Aṅguttara Nikāya 8.10

1. Phẩm Từ
1. Mettāvagga

Các Ðồ Rác
Kāraṇḍavasutta

1. Một thời, Thế Tôn trú ở Campā, trên bờ hồ Gaggarā. Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā campāyaṃ viharati gaggarāya pokkharaṇiyā tīre. Tena kho pana samayena bhikkhū bhikkhuṃ āpattiyā codenti.

Vị ấy bị các Tỷ-kheo buộc tội, tránh né vấn đề với một vấn đề khác, hướng câu chuyện ra ngoài, và hiện tướng phẫn nộ, sân hận và bất mãn.
So bhikkhu bhikkhūhi āpattiyā codiyamāno aññenāññaṃ paṭicarati, bahiddhā kathaṃ apanāmeti, kopañca dosañca appaccayañca pātukaroti.

Rồi Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi:

“2. Này các Tỷ-kheo, hãy đuổi người này ra!
“niddhamathetaṃ, bhikkhave, puggalaṃ;

Này các Tỷ-kheo, hãy tẩn xuất người này ra!
niddhamathetaṃ, bhikkhave, puggalaṃ.

Này các Tỷ-kheo, người này đáng bị khai trừ.
Apaneyyeso, bhikkhave, puggalo.

Tại sao ta lại trục xuất người này?
Kiṃ vo tena paraputtena visodhitena.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi nào một người đi ra, đi vào, nhìn lên, nhìn xung quanh, co tay, duỗi tay, mang y Saṅghāṭi, bát và y
Idha, bhikkhave, ekaccassa puggalassa tādisaṃyeva hoti abhikkantaṃ paṭikkantaṃ ālokitaṃ vilokitaṃ samiñjitaṃ pasāritaṃ saṅghāṭi-patta-cīvara-dhāraṇaṃ, seyyathāpi aññesaṃ bhaddakānaṃ bhikkhūnaṃ—

Như vậy, như các Tỷ-kheo hiền thiện khác, cho đến khi các Tỷ-kheo không thấy phạm tội. Nhưng khi các Tỷ-kheo thấy phạm tội, họ biết người này là như sau:
yāvassa bhikkhū āpattiṃ na passanti. Yato ca khvassa bhikkhū āpattiṃ passanti, tamenaṃ evaṃ jānanti:

‘Người này là Sa-môn ô uế, họ là Sa-môn rơm rạ, là Sa-môn rác rưởi.
‘samaṇadūsīvāyaṃ samaṇapalāpo samaṇakāraṇḍavo’ti.

Khi biết như vậy, họ đuổi người ấy ra ngoài. Vì sao?
Tamenaṃ iti viditvā bahiddhā nāsenti. Taṃ kissa hetu?

Chớ để cho người ấy làm ô uế các Tỷ kheo hiền thiện khác.
Mā aññe bhaddake bhikkhū dūsesīti.

3. Ví như, này các Tỷ-kheo, khi một ruộng lúa mì đã đầy đủ cây lúa mì ô nhiễm, cây lúa mì rơm rạ, cây lúa mì rác rưởi được mọc lên.
Seyyathāpi, bhikkhave, sampanne yavakaraṇe yavadūsī jāyetha yavapalāpo yavakāraṇḍavoti.

Với rễ như vậy, giống như các cây lúa mì hiền thiện khác.
Tassa tādisaṃyeva mūlaṃ hoti, seyyathāpi aññesaṃ bhaddakānaṃ yavānaṃ;

Với cành lá như vậy, giống như những cây lúa mì hiền thiện khác;
tādisaṃyeva nāḷaṃ hoti, seyyathāpi aññesaṃ bhaddakānaṃ yavānaṃ;

Với lá là như vậy, giống như những cây lúa mì hiền thiện khác
tādisaṃyeva pattaṃ hoti, seyyathāpi aññesaṃ bhaddakānaṃ yavānaṃ—

cho đến khi nào đầu ngọn lúa chưa mọc ra.
yāvassa sīsaṃ na nibbattati.

Khi đầu ngọn lúa mọc ra, họ biết:
Yato ca khvassa sīsaṃ nibbattati, tamenaṃ evaṃ jānanti:

Ðây là cây lúa mì hoang, đây là cây lúa mì rơm rạ, cây lúa mì rác rưởi.
‘yavadūsīvāyaṃ yavapalāpo yavakāraṇḍavo’ti.

Sau khi biết như vậy, họ nhổ cây lúa mì ấy lên, luôn cả rễ, và quăng cây lúa mì ấy ra khỏi ruộng lúa. Vì cớ sao?
Tamenaṃ iti viditvā samūlaṃ uppāṭetvā bahiddhā yavakaraṇassa chaḍḍenti. Taṃ kissa hetu?

Họ nói: “Ðừng để cho cây lúa mì làm uế nhiễm các cây lúa mì hiền thiện khác”.
Mā aññe bhaddake yave dūsesīti.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, khi nào một người đi ra, đi vào, nhìn lên, nhìn xung quanh, co tay, duỗi tay, mang y Saṅghāṭi, bát và y.
Evamevaṃ kho, bhikkhave, idhekaccassa puggalassa tādisaṃyeva hoti abhikkantaṃ paṭikkantaṃ ālokitaṃ vilokitaṃ samiñjitaṃ pasāritaṃ saṅghāṭi-patta-cīvara-dhāraṇaṃ, seyyathāpi aññesaṃ bhaddakānaṃ bhikkhūnaṃ—

Như vậy, như các Tỷ-kheo hiền thiện khác, cho đến khi các Tỷ-kheo không thấy người ấy phạm tội. Nhưng khi các Tỷ-kheo thấy người ấy phạm tội, họ biết được:
yāvassa bhikkhū āpattiṃ na passanti. Yato ca khvassa bhikkhū āpattiṃ passanti, tamenaṃ evaṃ jānanti:

Người này là Sa-môn giả hiệu, Sa-môn rơm, Sa-môn rác
‘samaṇadūsīvāyaṃ samaṇapalāpo samaṇakāraṇḍavo’ti.

Sau khi biết người ấy là như vậy, họ đuổi người ấy ra ngoài. Vì cớ sao?
Tamenaṃ iti viditvā bahiddhā nāsenti. Taṃ kissa hetu?

Chớ để cho người ấy làm uế nhiễm các Tỷ kheo hiền thiện khác.
Mā aññe bhaddake bhikkhū dūsesīti.

4. Ví như, này các Tỷ-kheo, khi một đống lúa lớn đang được sàng quạt, tại đấy, các hột lúa nào chắc cứng, có hạt, chúng được chất thành đống một bên; còn những hạt lúa nào yếu kém, chỉ là rơm.
Seyyathāpi, bhikkhave, mahato dhaññarāsissa phuṇamānassa tattha yāni tāni dhaññāni daḷhāni sāravantāni tāni ekamantaṃ puñjaṃ hoti, yāni pana tāni dhaññāni dubbalāni palāpāni tāni vāto ekamantaṃ apavahati.

Thời được gió thổi tạt qua một bên, và người chủ, với cây chổi, quét chúng còn xa hơn nữa. Vì cớ sao?
Tamenaṃ sāmikā sammajjaniṃ gahetvā bhiyyoso mattāya apasammajjanti. Taṃ kissa hetu?

Chớ để cho lúa ấy làm uế nhiễm các hạt lúa hiền thiện khác.
Mā aññe bhaddake dhaññe dūsesīti.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, khi nào một người đi ra, đi vào, nhìn lên, nhìn xung quanh, co tay, duỗi tay, mang y Saṅghāṭi, bát và y.
Evamevaṃ kho, bhikkhave, idhekaccassa puggalassa tādisaṃyeva hoti abhikkantaṃ paṭikkantaṃ ālokitaṃ vilokitaṃ samiñjitaṃ pasāritaṃ saṅghāṭi-patta-cīvara-dhāraṇaṃ, seyyathāpi aññesaṃ bhaddakānaṃ bhikkhūnaṃ—

Như vậy, như các Tỷ-kheo hiền thiện khác, cho đến khi nào các Tỷ-kheo không thấy người ấy phạm tội. Nhưng khi các Tỷ-kheo thấy người ấy phạm tội, họ biết được:
yāvassa bhikkhū āpattiṃ na passanti. Yato ca khvassa bhikkhū āpattiṃ passanti, tamenaṃ evaṃ jānanti:

Người này là Sa-môn ô uế, Sa-môn rơm rạ, Sa-môn rác rưởi.
‘samaṇadūsīvāyaṃ samaṇapalāpo samaṇakāraṇḍavo’ti.

Sau khi biết người ấy là như vậy, họ đuổi người ấy ra ngoài. Vì cớ sao?
Tamenaṃ iti viditvā bahiddhā nāsenti. Taṃ kissa hetu?

Chớ để cho người ấy làm uế nhiễm các Tỷ kheo hiền thiện khác.
Mā aññe bhaddake bhikkhū dūsesīti.

5. Ví như, này các Tỷ-kheo, một người cần một số ống nước, lấy một cây búa sắc bén và đi vào rừng.
Seyyathāpi, bhikkhave, puriso udapānapanāḷiyatthiko tiṇhaṃ kuṭhāriṃ ādāya vanaṃ paviseyya.

Và với cán cây búa ấy, gõ vào thân cây này hay thân cây khác. Ở đây, những cây nào chắc cứng, có lõi, khi được cán búa gõ vào, tiếng vang dội được tròn cứng.
So yaṃ yadeva rukkhaṃ kuṭhāripāsena ākoṭeyya tattha yāni tāni rukkhāni daḷhāni sāravantāni tāni kuṭhāripāsena ākoṭitāni kakkhaḷaṃ paṭinadanti;

Còn những cây nào ở giữa bị mục nát, không có lõi (đầy ứ bất tịnh) nhơ bẩn, khi được cán búa gõ vào, tiếng vang dội lép xẹp.
yāni pana tāni rukkhāni antopūtīni avassutāni kasambujātāni tāni kuṭhāripāsena ākoṭitāni daddaraṃ paṭinadanti.

Người ấy chặt cây ấy, chặt gốc ; sau khi chặt gốc, người ấy chặt ngọn; sau khi chặt ngọn, người ấy rửa phía trong của cây cho thật sạch; khi rửa phía trong cho thật sạch rồi, người ấy nối liền các ống ấy lại.
Tamenaṃ mūle chindati, mūle chinditvā agge chindati, agge chinditvā anto suvisodhitaṃ visodheti, anto suvisodhitaṃ visodhetvā udapānapanāḷiṃ yojeti.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, khi nào một người đi ra, đi vào, nhìn lên, nhìn xung quanh, co tay, duỗi tay, mang y Saṅghāṭi, bát và y.
Evamevaṃ kho, bhikkhave, idhekaccassa puggalassa tādisaṃyeva hoti abhikkantaṃ paṭikkantaṃ ālokitaṃ vilokitaṃ samiñjitaṃ pasāritaṃ saṅghāṭi-patta-cīvara-dhāraṇaṃ, seyyathāpi aññesaṃ bhaddakānaṃ bhikkhūnaṃ—

Như vậy, như các Tỷ-kheo hiền thiện khác, cho đến khi các Tỷ-kheo không thấy người ấy phạm tội. Nhưng khi các Tỷ-kheo thấy người ấy phạm tội, họ biết được:
yāvassa bhikkhū āpattiṃ na passanti. Yato ca khvassa bhikkhū āpattiṃ passanti, tamenaṃ evaṃ jānanti:

‘Người này là Sa-môn giả hiệu, Sa-môn rơm rạ, Sa-môn rác rưởi.
‘samaṇadūsīvāyaṃ samaṇapalāpo samaṇakāraṇḍavo’ti.

Sau khi biết người ấy là như vậy, họ đuổi người ấy ra ngoài. Vì cớ sao?
Tamenaṃ iti viditvā bahiddhā nāsenti. Taṃ kissa hetu?

Chớ để cho người ấy làm uế nhiễm các Tỷ kheo hiền thiện khác.
Mā aññe bhaddake bhikkhū dūsesīti.

Ông có thể biết được
Người này ông chung sống
Ái dục và phẫn nộ
Dèm pha và ngoan cố
Não hại và tật đố
Xan tham và man trá
Saṃvāsāyaṃ vijānātha,
pāpiccho kodhano iti;
Makkhī thambhī paḷāsī ca,
issukī maccharī saṭho.

Nói nhu hòa giữa người
Nói như lời Sa-môn
Che giấu, làm việc ác
Ác kiến, thiếu kính trọng
Santavāco janavati,
samaṇo viya bhāsati;
Raho karoti karaṇaṃ,
pāpadiṭṭhi anādaro.

Quanh co và nói láo
Biết vậy, người làm gì?
Tất cả phải đồng tình
Cùng tránh né người ấy
Saṃsappī ca musāvādī,
taṃ viditvā yathātathaṃ;
Sabbe samaggā hutvāna,
abhinibbajjayātha naṃ.

Hãy tẩn xuất rơm rác
Hãy tống cổ uế trược
Từ nay hãy đuổi xa
Kẻ nói nhiều vô ích
Không phải là Sa-môn
Nhưng hiện tướng Sa-môn
Kāraṇḍavaṃ niddhamatha,
Kasambuṃ apakassatha;
Tato palāpe vāhetha,
Assamaṇe samaṇamānine.

Tẩn xuất kẻ ác dục
Ác hạnh, ác uy nghi
Sống với người thanh tịnh
Sống trong sạch chánh niệm
Hòa hợp biết khôn khéo
Hãy chấm dứt khổ đau.
Niddhamitvāna pāpicche,
pāpaācāragocare;
Suddhāsuddhehi saṃvāsaṃ,
kappayavho patissatā;
Tato samaggā nipakā,
dukkhassantaṃ karissathā”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt