Tăng Chi Bộ 8.43
Aṅguttara Nikāya 8.43
5. Phẩm Ngày Trai Giới
5. Uposathavagga
Visakha
Visākhāsutta
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Ðông Viên, lâu đài mẹ của Migāra.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati pubbārāme migāramātupāsāde.
Rồi Visākhā, mẹ của Migāra đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Visākhā, mẹ của Migāra đang ngồi một bên:
Atha kho visākhā migāramātā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho visākhaṃ migāramātaraṃ bhagavā etadavoca:
“2. Này Visākhā, ngày trai giới đầy đủ tám chi phần được thực hành, thời có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn, có biến mãn lớn.
“aṭṭhaṅgasamannāgato kho, visākhe, uposatho upavuttho mahapphalo hoti mahānisaṃso mahājutiko mahāvipphāro.
Như thế nào, này Visākhā, là ngày trai giới thành tựu tám chi phần, được thực hành thời có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn; có biến mãn lớn?
Kathaṃ upavuttho ca, visākhe, aṭṭhaṅgasamannāgato uposatho mahapphalo hoti mahānisaṃso mahājutiko mahāvipphāro?
3. Ở đây, này Visākhā, Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
Idha, visākhe, ariyasāvako iti paṭisañcikkhati:
“Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình.
‘yāvajīvaṃ arahanto pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā paṭiviratā nihitadaṇḍā nihitasatthā lajjī dayāpannā, sabbapāṇabhūtahitānukampino viharanti.
Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình.
Ahampajja imañca rattiṃ imañca divasaṃ pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā paṭivirato nihitadaṇḍo nihitasattho lajjī dayāpanno, sabbapāṇabhūtahitānukampī viharāmi.
Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành trai giới.’
Imināpaṅgena arahataṃ anukaromi, uposatho ca me upavuttho bhavissatī’ti.
Ðây là chi phần thứ nhất được thành tựu.
Iminā paṭhamena aṅgena samannāgato hoti ...pe....
‘Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận, không dùng các giường cao, giường lớn, từ bỏ không dùng các giường cao, giường lớn.
‘Yāvajīvaṃ arahanto uccāsayanamahāsayanaṃ pahāya uccāsayanamahāsayanā paṭiviratā nīcaseyyaṃ kappenti—mañcake vā tiṇasanthārake vā.
Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng đoạn tận, không dùng các giường cao, giường lớn, từ bỏ không dùng các giường cao, giường lớn.
Ahampajja imañca rattiṃ imañca divasaṃ uccāsayanamahāsayanaṃ pahāya uccāsayanamahāsayanā paṭivirato nīcaseyyaṃ kappemi—mañcake vā tiṇasanthārake vā.
Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới.’
Imināpaṅgena arahataṃ anukaromi, uposatho ca me upavuttho bhavissatī’ti.
Ðây là chi phần thứ tám được thành tựu.
Iminā aṭṭhamena aṅgena samannāgato hoti.
Này Visākhā, ngày trai giới thành tựu tám chi phần được thực hành như vậy, thời có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn, có biến mãn lớn.
Evaṃ upavuttho kho, visākhe, aṭṭhaṅgasamannāgato uposatho mahapphalo hoti mahānisaṃso mahājutiko mahāvipphāro.
Ðến như thế nào là quả lớn? Ðến như thế nào là lợi ích lớn? Ðến như thế nào là rực rỡ lớn? Ðến như thế nào là biến mãn lớn?
Kīvamahapphalo hoti, kīvamahānisaṃso, kīvamahājutiko, kīvamahāvipphāro?
4. Ví như, này Visākhā, có người áp đặt chủ quyền cai trị trên mười sáu quốc độ lớn này tràn đầy bảy báu, như—
Seyyathāpi, visākhe, yo imesaṃ soḷasannaṃ mahājanapadānaṃ pahūtarattaratanānaṃ issariyādhipaccaṃ rajjaṃ kāreyya, seyyathidaṃ—
Aṅga, Magadha, Kāsi, Kosala, Vajji, Malla, Cetī, Vaccha, Kuru, Pañcāla, Maccha, Sūrasena, Assaka, Avanti, Gandhāra, và Kamboja. Nhưng chủ quyền ấy không bằng một phần mười sáu của một ngày trai giới thành tựu tám chi phần.
aṅgānaṃ magadhānaṃ kāsīnaṃ kosalānaṃ vajjīnaṃ mallānaṃ cetīnaṃ vaṅgānaṃ kurūnaṃ pañcālānaṃ macchānaṃ sūrasenānaṃ assakānaṃ avantīnaṃ gandhārānaṃ kambojānaṃ, aṭṭhaṅgasamannāgatassa uposathassa etaṃ kalaṃ nāgghati soḷasiṃ.
Vì cớ sao?
Taṃ kissa hetu?
Nhỏ nhoi, này Visākhā, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên.
Kapaṇaṃ, visākhe, mānusakaṃ rajjaṃ dibbaṃ sukhaṃ upanidhāya.
5. Năm mươi năm của một đời người, này Visākhā, bằng một đêm một ngày của chư Thiên Bốn thiên vương.
Yāni, visākhe, mānusakāni paññāsa vassāni, cātumahārājikānaṃ devānaṃ eso eko rattindivo.
Ba mươi đêm của đêm ấy làm thành một tháng. Mười hai tháng của tháng ấy làm thành một năm.
Tāya rattiyā tiṃsarattiyo māso. Tena māsena dvādasamāsiyo saṃvaccharo.
Năm mươi năm chư Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của chư Thiên Bốn thiên vương.
Tena saṃvaccharena dibbāni pañca vassasatāni cātumahārājikānaṃ devānaṃ āyuppamāṇaṃ.
Sự kiện này có xảy ra, này Visākhā: “Ở đây, có người đàn bà hay đàn ông, sau khi thực hành trai giới thành tựu tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên Bốn thiên vương”.
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, visākhe, vijjati yaṃ idhekacco itthī vā puriso vā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavasitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā cātumahārājikānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyya.
Do vậy, Ta nói: “Nhỏ nhoi thay, này Visākhā, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên “.
Idaṃ kho panetaṃ, visākhe, sandhāya bhāsitaṃ: ‘kapaṇaṃ mānusakaṃ rajjaṃ dibbaṃ sukhaṃ upanidhāya’.
6. Một trăm năm của một đời người, này Visākhā, bằng một đêm một ngày của chư Thiên cõi trời Ba mươi ba.
Yaṃ, visākhe, mānusakaṃ vassasataṃ, tāvatiṃsānaṃ devānaṃ eso eko rattindivo.
Ba mươi đêm của đêm ấy làm thành một tháng. Mười hai tháng của tháng ấy làm thành một năm.
Tāya rattiyā tiṃsarattiyo māso. Tena māsena dvādasamāsiyo saṃvaccharo.
Một ngàn năm chư Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của chư Thiên cõi trời Ba mươi ba.
Tena saṃvaccharena vassasahassaṃ tāvatiṃsānaṃ devānaṃ āyuppamāṇaṃ.
Sự kiện này có xảy ra, này Visākhā: “Ở đây, có người đàn bà hay đàn ông, sau khi thực hành ngày trai giới thành tựu tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên cõi trời Ba mươi ba”.
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, visākhe, vijjati yaṃ idhekacco itthī vā puriso vā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavasitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā tāvatiṃsānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyya.
Do vậy, Ta nói: “Nhỏ nhoi thay, này Visākhā, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên”.
Idaṃ kho panetaṃ, visākhe, sandhāya bhāsitaṃ: ‘kapaṇaṃ mānusakaṃ rajjaṃ dibbaṃ sukhaṃ upanidhāya’.
7. Hai trăm năm của một đời người, này Visākhā, bằng một đêm một ngày của chư Thiên cõi trời Yāma. Ba mươi đêm của đêm ấy làm thành một tháng, mười hai tháng của tháng ấy làm thành một năm. Hai ngàn năm chư Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của chư Thiên cõi trời Yāma. Sự kiện này có xảy ra, này Visākhā: “Ở đây, có người đàn bà hay đàn ông, sau khi thực hành ngày trai giới thành tựu tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên cõi trời Yāma”. Do vậy, Ta nói: “Nhỏ nhoi thay, này Visākhā, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên”.
Yāni, visākhe, mānusakāni dve vassasatāni ...pe...
Bốn trăm năm của một đời người, này Visākhā, bằng một đêm một ngày của chư Thiên cõi trời Tusitā (Ðâu-Xuất). Ba mươi đêm của đêm ấy làm thành một tháng, mười hai tháng của tháng ấy làm thành một năm. Bốn ngàn năm chư Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của chư Thiên cõi trời Tusitā. Sự kiện này có xảy ra, này Visākhā: “Ở đây, có người đàn bà hay đàn ông, sau khi thực hành ngày trai giới thành tựu tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên cõi trời Tusitā”. Do vậy, Ta nói: “Nhỏ nhoi thay, này Visākhā, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên “.
cattāri vassasatāni ...pe...
Tám trăm năm của một đời người, này Visākhā, bằng một đêm một ngày của chư Thiên cõi trời Hóa lạc. Tám ngàn năm chư Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của chư Thiên cõi trời Hóa lạc. Sự kiện này có xảy ra, … với hạnh phúc chư Thiên “.
aṭṭha vassasatāni ...pe...
Mười sáu trăm năm của một đời người, này Visākhā, bằng một đêm một ngày của chư Thiên cõi trời Tha hóa Tự tại.
soḷasa vassasatāni paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ eso eko rattindivo.
Ba mươi đêm của đêm ấy làm thành một tháng. Mười hai tháng của tháng ấy làm thành một năm.
Tāya rattiyā tiṃsarattiyo māso. Tena māsena dvādasamāsiyo saṃvaccharo.
Mười sáu ngàn năm chư Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của chư Thiên cõi trời Tha hóa Tự tại.
Tena saṃvaccharena dibbāni soḷasa vassasahassāni paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ āyuppamāṇaṃ.
Sự kiện này có xảy ra, này Visākhā: “Ở đây, có người đàn bà hay đàn ông, sau khi thực hành ngày trai giới thành tựu tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên cõi trời Tha hóa Tự tại”.
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, visākhe, vijjati yaṃ idhekacco itthī vā puriso vā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavasitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyya.
Do vậy, Ta nói: “Nhỏ nhoi thay, này Visākhā, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên”.
Idaṃ kho panetaṃ, visākhe, sandhāya bhāsitaṃ: ‘kapaṇaṃ mānusakaṃ rajjaṃ dibbaṃ sukhaṃ upanidhāyā’ti.
Không sát sanh, trộm cắp
Không nói lời dối trá,
Không uống rượu, chất say
Phạm hạnh không dâm dục
Không ăn vào ban đêm
Tránh không ăn phi thời.
Pāṇaṃ na haññe na cadinnamādiye,
Musā na bhāse na ca majjapo siyā;
Abrahmacariyā virameyya methunā,
Rattiṃ na bhuñjeyya vikālabhojanaṃ.
Không đeo vòng hoa
Không dùng các hương liệu
Nên ngủ trên chỗ thấp
Hay trải chiếu rồi nằm
Đây Bố-Tát tám phần
Được Đức Phật tuyên thuyết
Đoạn tân mọi khổ đau.
Mālaṃ na dhāre na ca gandhamācare,
Mañce chamāyaṃ va sayetha santhate;
Etañhi aṭṭhaṅgikamāhuposathaṃ,
Buddhena dukkhantagunā pakāsitaṃ.
Mặt trăng và mặt trời
Tốt đẹp và toả sáng
Chúng chói sáng trên trời
Sáng rực mọi phương hướng
Chỗ nào chung đi qua
Bóng tối đều biến mất.
Cando ca suriyo ca ubho sudassanā,
Obhāsayaṃ anupariyanti yāvatā;
Tamonudā te pana antalikkhagā,
Nabhe pabhāsanti disāvirocanā.
Tài sản trong đời này
Trân châu và ngọc quý
Cùng ngọc bích sặc sỡ
Vàng rồng hay nguyên chất
Hoặc vàng được kiến đào.
Etasmiṃ yaṃ vijjati antare dhanaṃ,
Muttā maṇi veḷuriyañca bhaddakaṃ;
Siṅgīsuvaṇṇaṃ atha vāpi kañcanaṃ,
Yaṃ jātarūpaṃ haṭakanti vuccati.
Chúng không bằng giá trị
Chỉ một phần mười sáu
Giữ Bát-Giới tám phần
Ánh sáng các Vì Sao
Không thể bì Ánh Trăng.
Aṭṭhaṅgupetassa uposathassa,
Kalampi te nānubhavanti soḷasiṃ;
Candappabhā tāragaṇā ca sabbe.
Dầu là nam hay nữ
Có giới hạnh nghiêm trì
Giữ Bát-Giới tám phần
Làm các thiện công đức
Đem lại nhiều an lạc
Không chỗ nào chê trách
Được sanh lên cõi Trời”.
Tasmā hi nārī ca naro ca sīlavā,
Aṭṭhaṅgupetaṃ upavassuposathaṃ;
Puññāni katvāna sukhudrayāni,
Aninditā saggamupenti ṭhānan”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt