Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 8.55

Tăng Chi Bộ 8.55
Aṅguttara Nikāya 8.55

6. Phẩm Gotamī
6. Gotamīvagga

Bà-La-Môn Ujjaya
Ujjayasutta

1. Rồi Bà-la-môn Ujjaya đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Ujjaya bạch Thế Tôn:
Atha kho ujjayo brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho ujjayo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Đức Gotama, chúng con muốn đi du hành, Tôn giả Gotama hãy thuyết pháp cho những người như chúng con, thuyết pháp như thế nào để những pháp ấy đem lại cho chúng con hạnh phúc hiện tại, an lạc hiện tại, hạnh phúc tương lai, an lạc tương lai”.
“mayaṃ, bho gotama, pavāsaṃ gantukāmā. Tesaṃ no bhavaṃ gotamo amhākaṃ tathā dhammaṃ desetu—ye amhākaṃ assu dhammā diṭṭhadhammahitāya, diṭṭhadhammasukhāya, samparāyahitāya, samparāyasukhāyā”ti.

“2. Này Bà-la-môn, có bốn pháp này đưa đến hạnh phúc hiện tại, an lạc hiện tại cho thiện nam tử. Thế nào là bốn?
“Cattārome, brāhmaṇa, dhammā kulaputtassa diṭṭhadhammahitāya saṃvattanti, diṭṭhadhammasukhāya. Katame cattāro?

3. Ðầy đủ sự tháo vát, đầy đủ phòng hộ, làm bạn với thiện, sống thăng bằng điều hòa.
Uṭṭhānasampadā, ārakkhasampadā, kalyāṇamittatā, samajīvitā.

Này Bà-la-môn, thế nào là đầy đủ sự tháo vát?
Katamā ca, brāhmaṇa, uṭṭhānasampadā?

4. Ở đây, này Bà-la-môn, thiện nam tử làm nghề gì để sống:
Idha, brāhmaṇa, kulaputto yena kammaṭṭhānena jīvikaṃ kappeti—

hoặc nghề nông, hoặc đi buôn, hoặc nuôi bò, hoặc làm người bắn cung, hoặc làm việc cho vua, hoặc bất cứ nghề gì, trong các nghề ấy, người ấy thiện xảo, không biết mệt, biết suy tư hiểu phương tiện vừa đủ để tự làm và điều khiển người khác làm;
yadi kasiyā, yadi vaṇijjāya, yadi gorakkhena, yadi issattena, yadi rājaporisena, yadi sippaññatarena—tattha dakkho hoti analaso, tatrupāyāya vīmaṃsāya samannāgato, alaṃ kātuṃ alaṃ saṃvidhātuṃ.

Này Bà-la-môn, đây gọi là đầy đủ sự tháo vát.
Ayaṃ vuccati, brāhmaṇa, uṭṭhānasampadā.

Và này Bà-la-môn, thế nào là đầy đủ phòng hộ?
Katamā ca, brāhmaṇa, ārakkhasampadā?

5. Ở đây, này Bà-la-môn, những tài sản của thiện nam tử do tháo vát tinh tấn thâu hoạch được, do sức mạnh bàn tay cất chứa được, do mồ hôi đổ ra đúng pháp, thâu hoạch được đúng pháp, vị ấy giữ gìn chúng, phòng hộ và bảo vệ:
Idha, brāhmaṇa, kulaputtassa bhogā honti uṭṭhānavīriyādhigatā, bāhābalaparicitā, sedāvakkhittā, dhammikā dhammaladdhā. Te ārakkhena guttiyā sampādeti:

‘Làm thế nào các tài sản này của ta không bị vua mang đi, không bị trộm cướp mang đi, không bị lửa đốt, không bị nước cuốn trôi, không bị các người con thừa tự không khả ái cướp đoạt?’
‘kinti me ime bhoge neva rājāno hareyyuṃ, na corā hareyyuṃ, na aggi ḍaheyya, na udakaṃ vaheyya, na appiyā dāyādā hareyyun’ti.

Này Bà-la-môn, đây gọi là đầy đủ sự phòng hộ.
Ayaṃ vuccati, brāhmaṇa, ārakkhasampadā.

Và này Bà-la-môn, thế nào là làm bạn với thiện?
Katamā ca, brāhmaṇa, kalyāṇamittatā?

6. Ở đây, này Bà-la-môn, thiện nam tử sống tại làng hay tại thị trấn. Tại đấy có gia chủ hay con người gia chủ, những trẻ được nuôi lớn trong giới đức, hay những người lớn tuổi được lớn lên trong giới đức, đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ, vị ấy làm quen, nói chuyện, thảo luận. Với những người đầy đủ lòng tin, vị ấy học tập với đầy đủ lòng tin. Với những người đầy đủ giới đức, vị ấy học tập với đầy đủ giới đức. Với những người đầy đủ bố thí, vị ấy học tập với đầy đủ bố thí. Với những người đầy đủ trí tuệ, vị ấy học tập với đầy đủ trí tuệ.
Idha, brāhmaṇa, kulaputto yasmiṃ gāme vā nigame vā paṭivasati tatra ye te honti—gahapatī vā gahapatiputtā vā daharā vā vuddhasīlino, vuddhā vā vuddhasīlino, saddhāsampannā, sīlasampannā, cāgasampannā, paññāsampannā—tehi saddhiṃ santiṭṭhati sallapati sākacchaṃ samāpajjati; yathārūpānaṃ saddhāsampannānaṃ saddhāsampadaṃ anusikkhati, yathārūpānaṃ sīlasampannānaṃ sīlasampadaṃ anusikkhati, yathārūpānaṃ cāgasampannānaṃ cāgasampadaṃ anusikkhati, yathārūpānaṃ paññāsampannānaṃ paññāsampadaṃ anusikkhati.

Này Bà-la-môn, đây gọi là làm bạn với thiện.
Ayaṃ vuccati, brāhmaṇa, kalyāṇamittatā.

Và này Bà-la-môn, thế nào là sống thăng bằng, điều hòa?
Katamā ca, brāhmaṇa, samajīvitā?

7. Ở đây, này Bà-la-môn, thiện nam tử sau khi biết tài sản nhập, và sau khi biết tài sản xuất, sinh sống một cách điều hòa, không quá phung phí, không quá bỏn xẻn. Vị ấy suy nghĩ: “Ðây là tiền nhập của ta, sau khi trừ đi tiền xuất, còn lại như vậy; không phải đây là tiền xuất của ta, sau khi trừ đi tiền nhập, còn lại như vậy”.
Idha, brāhmaṇa, kulaputto āyañca bhogānaṃ viditvā vayañca bhogānaṃ viditvā samaṃ jīvikaṃ kappeti nāccogāḷhaṃ nātihīnaṃ: ‘evaṃ me āyo vayaṃ pariyādāya ṭhassati, na ca me vayo āyaṃ pariyādāya ṭhassatī’ti.

Ví như, này Bà-la-môn, người cầm cân hay đệ tử người cầm cân, sau khi cầm cân biết rằng: “Với chừng ấy, cân chìm xuống, hay với chừng ấy, cân nổi lên”.
Seyyathāpi, brāhmaṇa, tulādhāro vā tulādhārantevāsī vā tulaṃ paggahetvā jānāti: ‘ettakena vā onataṃ, ettakena vā unnatan’ti;

Cũng vậy, này Bà-la-môn, thiện nam tử sau khi biết tài sản nhập, và sau khi biết tài sản xuất, sinh sống một cách điều hòa, không quá phung phí, không quá bỏn xẻn. Vị ấy suy nghĩ: “Ðây là tiền nhập của ta, sau khi trừ đi tiền xuất, còn lại như vậy; không phải đây là tiền xuất của ta, sau khi trừ đi tiền nhập, còn lại như vậy”.
evamevaṃ kho, brāhmaṇa, kulaputto āyañca bhogānaṃ viditvā vayañca bhogānaṃ viditvā samaṃ jīvikaṃ kappeti nāccogāḷhaṃ nātihīnaṃ: ‘evaṃ me āyo vayaṃ pariyādāya ṭhassati, na ca me vayo āyaṃ pariyādāya ṭhassatī’ti.

Này Bà-la-môn, nếu thiện nam tử này tiền nhập vào ít, nhưng sống nếp sống rộng rãi, hoang phí, thời người ta nói về người ấy như sau: “Người thiện nam tử này ăn tài sản của vị ấy như ăn trái cây sung”.
Sacāyaṃ, brāhmaṇa, kulaputto appāyo samāno uḷāraṃ jīvikaṃ kappeti, tassa bhavanti vattāro: ‘udumbarakhādīvāyaṃ kulaputto bhoge khādatī’ti.

Này Bà-la-môn, nếu người thiện nam tử này có tiền nhập lớn, nhưng sống nếp sống cơ cực, thời người ta sẽ nói về vị ấy như sau: “Người thiện nam tử này sẽ chết như người chết đói”.
Sace panāyaṃ, brāhmaṇa, kulaputto mahāyo samāno kasiraṃ jīvikaṃ kappeti, tassa bhavanti vattāro: ‘ajeṭṭhamaraṇaṃvāyaṃ kulaputto marissatī’ti.

Khi nào, này Bà-la-môn, thiện nam tử này, sau khi biết tài sản nhập, và sau khi biết tài sản xuất, sống nếp sống thăng bằng đìều hoà, không quá phung phí, không quá bỏn xẻn. Vị ấy suy nghĩ: “Ðây là tiền nhập của ta, sau khi trừ đi tiền xuất, còn lại như vậy; không phải đây là tiền xuất của ta, sau khi trừ đi tiền nhập, còn lại như vậy”.
Yato ca khoyaṃ, brāhmaṇa, kulaputto āyañca bhogānaṃ viditvā vayañca bhogānaṃ viditvā samaṃ jīvikaṃ kappeti nāccogāḷhaṃ nātihīnaṃ: ‘evaṃ me āyo vayaṃ pariyādāya ṭhassati, na ca me vayo āyaṃ pariyādāya ṭhassatī’ti,

Này Bà-la-môn, đây gọi là nếp sống thăng bằng điều hòa.
ayaṃ vuccati, brāhmaṇa, samajīvitā.

8. Như vậy, này Bà-la-môn, có bốn cửa xuất để tiêu phí tài sản thâu nhập: “Ðam mê đàn bà, đam mê rượu chè, đam mê cờ bạc; bạn bè kẻ ác, thân hữu kẻ ác, giao du kẻ ác”.
Evaṃ samuppannānaṃ, brāhmaṇa, bhogānaṃ cattāri apāyamukhāni honti—itthidhutto, surādhutto, akkhadhutto, pāpamitto pāpasahāyo pāpasampavaṅko.

Ví như, này Bà-la-môn, một hồ nước lớn, có bốn cửa nước chảy vào, có bốn cửa nước chảy ra, có người đóng lại các cửa nước chảy vào, mở ra các cửa nước chảy ra, trời lại không mưa đúng lúc, như vậy, này Bà-la-môn, chờ đợi là hồ nước ấy bị giảm thiểu, không có tăng trưởng.
Seyyathāpi, brāhmaṇa, mahato taḷākassa cattāri ceva āyamukhāni, cattāri ca apāyamukhāni. Tassa puriso yāni ceva āyamukhāni tāni pidaheyya, yāni ca apāyamukhāni tāni vivareyya; devo ca na sammā dhāraṃ anuppaveccheyya. Evañhi tassa, brāhmaṇa, mahato taḷākassa parihāniyeva pāṭikaṅkhā, no vuddhi;

Cũng vậy, này Bà-la-môn, có bốn cửa xuất để tiêu phí tài sản được thâu nhập: “Ðam mê đàn bà, đam mê rượu chè, đam mê cờ bạc; bạn bè kẻ ác, thân hữu kẻ ác, giao du kẻ ác”.
evamevaṃ kho, brāhmaṇa, evaṃ samuppannānaṃ bhogānaṃ cattāri apāyamukhāni honti—itthidhutto, surādhutto, akkhadhutto, pāpamitto pāpasahāyo pāpasampavaṅko.

9. Như vậy, Này Bà-la-môn, có bốn cửa vào để tài sản được hưng khởi: “: “Không say đắm đàn bà, không say đắm rượu chè, không say đắm cờ bạc; bạn bè với thiện, thân hữu với thiện, giao du với thiện”.
Evaṃ samuppannānaṃ, brāhmaṇa, bhogānaṃ cattāri āyamukhāni honti—na itthidhutto, na surādhutto, na akkhadhutto, kalyāṇamitto kalyāṇasahāyo kalyāṇasampavaṅko.

Ví như, này Bà-la-môn, một hồ nước lớn, có bốn cửa nước chảy vào, có bốn cửa nước chảy ra, có người đóng lại các cửa nước chảy ra, mở ra các cửa nước chảy vào, và trời lại mưa đúng lúc, như vậy, này Bà-la-môn, chờ đợi là hồ nước ấy tăng trưởng, không có giảm thiểu.
Seyyathāpi, brāhmaṇa, mahato taḷākassa cattāri ceva āyamukhāni cattāri ca apāyamukhāni. Tassa puriso yāni ceva āyamukhāni tāni vivareyya, yāni ca apāyamukhāni tāni pidaheyya; devo ca sammā dhāraṃ anuppaveccheyya. Evañhi tassa, brāhmaṇa, mahato taḷākassa vuddhiyeva pāṭikaṅkhā, no parihāni;

Cũng vậy, này Bà-la-môn, có bốn cửa vào để tài sản được hưng khởi: “Không say đắm đàn bà, không say đắm rượu chè, không say đắm cờ bạc; bạn bè với thiện, thân hữu với thiện, giao du với thiện”.
evamevaṃ kho, brāhmaṇa, evaṃ samuppannānaṃ bhogānaṃ cattāri āyamukhāni honti— na itthidhutto ...pe... kalyāṇasampavaṅko.

Bốn pháp này, này Bà-la-môn, đưa đến hạnh phúc hiện tại, an lạc hiện tại cho các thiện nam tử.
Ime kho, brāhmaṇa, cattāro dhammā kulaputtassa diṭṭhadhammahitāya saṃvattanti diṭṭhadhammasukhāya.

10. Có bốn pháp này, này Bà-la-môn, đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc tương lai cho thiện nam tử. Thế nào là bốn?
Cattārome, brāhmaṇa, kulaputtassa dhammā samparāyahitāya saṃvattanti samparāyasukhāya. Katame cattāro?

11. Ðầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ.
Saddhāsampadā, sīlasampadā, cāgasampadā, paññāsampadā.

Và này Bà-la-môn, thế nào là đầy đủ lòng tin?
Katamā ca, brāhmaṇa, saddhāsampadā?

12. Ở đây, này Bà-la-môn, thiện nam tử có lòng in, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: “Ðây là Thế Tôn … bậc Thiên Nhân sư, Phật, Thế Tôn”.
Idha, brāhmaṇa, kulaputto saddho hoti, saddahati tathāgatassa bodhiṃ:‘itipi so bhagavā ...pe... satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā’ti.

Này Bà-la-môn, đây gọi là đầy đủ lòng tin.
Ayaṃ vuccati, brāhmaṇa, saddhāsampadā.

Và này Bà-la-môn, thế nào là đầy đủ giới đức?
Katamā ca, brāhmaṇa, sīlasampadā?

13. Ở đây, này Bà-la-môn, thiện nam tử từ bỏ sát sanh … từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu.
Idha, brāhmaṇa, kulaputto pāṇātipātā paṭivirato hoti ...pe... surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭivirato hoti.

Này Bà-la-môn, đây gọi là đầy đủ giới đức.
Ayaṃ vuccati, brāhmaṇa, sīlasampadā.

Và này Bà-la-môn, thế nào là đầy đủ bố thí?
Katamā ca, brāhmaṇa, cāgasampadā?

14. Ở đây, này Bà-la-môn, thiện nam tử sống ở gia đình, với tâm không bị cấu uế, xan tham chi phối, bố thí rộng rãi, với bàn tay mở rộng, vui thích từ bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, vui thích chia xẻ vật bố thí.
Idha, brāhmaṇa, kulaputto vigatamalamaccherena cetasā agāraṃ ajjhāvasati muttacāgo payatapāṇi vosaggarato yācayogo dānasaṃvibhāgarato.

Này Bà-la-môn, đây gọi là đầy đủ bố thí.
Ayaṃ vuccati, brāhmaṇa, cāgasampadā.

Và này Bà-la-môn, thế nào là đầy đủ trí tuệ?
Katamā ca, brāhmaṇa, paññāsampadā?

15. Ở đây, này Bà-la-môn, thiện nam tử có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, với thánh thể nhập (quyết trạch), chơn chánh chấm dứt khổ đau.
Idha, brāhmaṇa, kulaputto paññavā hoti ...pe... sammā dukkhakkhayagāminiyā.

Này Bà-la-môn, đây gọi là đầy đủ trí tuệ.
Ayaṃ vuccati, brāhmaṇa, paññāsampadā.

Có bốn pháp này, này Bà-la-môn, đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc tương lai cho thiện nam tử.
“Ime kho, brāhmaṇa, cattāro dhammā kulaputtassa samparāyahitāya saṃvattanti samparāyasukhāyāti.

Tháo vát trong công việc,
Không phóng dật, nhanh nhẹn,
Sống đời sống thăng bằng,
Giữ tài sản thâu được.
Uṭṭhātā kammadheyyesu,
appamatto vidhānavā;
Samaṃ kappeti jīvikaṃ,
sambhataṃ anurakkhati.

Có tín, đầy đủ giới,
Bố thí, không xan tham,
Rửa sạch đường thượng đạo,
An toàn trong tương lai.
Saddho sīlena sampanno,
vadaññū vītamaccharo;
Niccaṃ maggaṃ visodheti,
sotthānaṃ samparāyikaṃ.

Ðây chính là tám pháp,
Bậc tín chủ tìm cầu,
Bậc chân thật tuyên bố,
Ðưa đến lạc hai đời.
Iccete aṭṭha dhammā ca,
saddhassa gharamesino;
Akkhātā saccanāmena,
ubhayattha sukhāvahā.

Hạnh phúc cho hiện tại,
Và an lạc tương lai,
Ðây trú xứ gia chủ,
Bố thí, tăng công đức.
Diṭṭhadhammahitatthāya,
samparāyasukhāya ca;
Evametaṃ gahaṭṭhānaṃ,
cāgo puññaṃ pavaḍḍhatī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt