Tăng Chi Bộ 8.86
Aṅguttara Nikāya 8.86
9. Phẩm Niệm
9. Sativagga
Ðảnh Lễ
Yasasutta
1. Một thời, Thế Tôn đang bộ hành giữa dân chúng Kosala với chúng Tỷ-kheo, đi đến một làng Bà-la-môn của dân chúng Kosala tên là Icchānaṅgala.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā kosalesu cārikaṃ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ yena icchānaṅgalaṃ nāma kosalānaṃ brāhmaṇagāmo tadavasari.
Tại đấy, Thế Tôn trú ở Icchānaṅgala, tại khu rừng Icchānaṅgala.
Tatra sudaṃ bhagavā icchānaṅgale viharati icchānaṅgalavanasaṇḍe.
2. Các Bà-la-môn gia chủ trú ở Icchānaṅgala được nghe:
Assosuṃ kho icchānaṅgalakā brāhmaṇagahapatikā:
“Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, nay đã đến Icchānaṅgala, trú ở Icchānaṅgala, tại khu rừng Icchānaṅgala.
“samaṇo khalu bho gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito icchānaṅgalaṃ anuppatto icchānaṅgale viharati icchānaṅgalavanasaṇḍe.
Những tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Sa-môn Gotama:
Taṃ kho pana bhavantaṃ gotamaṃ evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:
‘Ngài là bậc Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.’ …
‘itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho ...pe...
Lành thay, nếu được yết kiến một bậc A-la-hán như vậy.”
sādhu kho pana tathārūpānaṃ arahataṃ dassanaṃ hotī’”ti.
Rồi Bà-la-môn gia chủ sau khi đêm ấy đã mãn, đem theo rất nhiều đồ ăn loại cứng và loại mềm, đi đến Icchānaṅgala, sau khi đến, đứng tại ngoài cửa nói lớn tiếng làm ồn ào.
Atha kho icchānaṅgalakā brāhmaṇagahapatikā tassā rattiyā accayena pahutaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ ādāya yena icchānaṅgalavanasaṇḍo tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bahidvārakoṭṭhake aṭṭhaṃsu uccāsaddā mahāsaddā.
3. Lúc bấy giờ, Tôn giả Nāgita là thị giả của Thế Tôn.
Tena kho pana samayena āyasmā nāgito bhagavato upaṭṭhāko hoti.
Rồi Thế Tôn bảo Tôn giả Nāgita:
Atha kho bhagavā āyasmantaṃ nāgitaṃ āmantesi:
“Này Nāgita, những ai lớn tiếng, cao tiếng như những hàng cá, với đống cá lớn?”
“ke pana te, nāgita, uccāsaddā mahāsaddā kevaṭṭā maññe macchavilope”ti?
“Các người ấy, bạch Thế Tôn là các Bà-la-môn gia chủ ở Icchānaṅgala đang đứng ở ngoài cổng vào, đem theo rất nhiều đồ ăn loại cứng và loại mềm cho Thế Tôn và chúng Tăng.”
“Ete, bhante, icchānaṅgalakā brāhmaṇagahapatikā pahutaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ ādāya bahidvārakoṭṭhake ṭhitā bhagavantaṃyeva uddissa bhikkhusaṅghañcā”ti.
“Này Nāgita, Ta không có liên hệ gì với danh vọng, và danh vọng không có liên hệ gì với Ta.
“Māhaṃ, nāgita, yasena samāgamaṃ, mā ca mayā yaso.
Này Nāgita, những ai tìm được có khó khăn, tìm được có mệt nhọc, tìm được có phí sức an ổn lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc mà Ta đã tìm được không khó khăn, tìm được không mệt nhọc, tìm được không phí sức,
Yo kho, nāgita, nayimassa nekkhammasukhassa pavivekasukhassa upasamasukhassa sambodhasukhassa nikāmalābhī assa akicchalābhī akasiralābhī. Yassāhaṃ nekkhammasukhassa pavivekasukhassa upasamasukhassa sambodhasukhassa nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī,
hãy để họ thọ hưởng lạc như phân, thụy miên lạc, lợi dưỡng, cung kính, danh văn lạc ấy.”
so taṃ mīḷhasukhaṃ middhasukhaṃ lābhasakkārasilokasukhaṃ sādiyeyyā”ti.
“Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy chấp nhận! Thiện Thệ hãy chấp nhận.
“Adhivāsetu dāni, bhante, bhagavā. Adhivāsetu sugato.
Bạch Thế Tôn, nay là thời Thế Tôn chấp nhận.
Adhivāsanakālo dāni, bhante, bhagavato.
Thế Tôn sẽ đi đến chỗ nào, tại chỗ ấy, các Bà-la-môn gia chủ ở thị trấn và ở quốc độ cũng sẽ đi đến với tâm hướng về Ngài.
Yena yeneva dāni, bhante, bhagavā gamissati tanninnāva bhavissanti brāhmaṇagahapatikā negamā ceva jānapadā ca.
Ví như trời mưa nặng hạt, và nước mưa được chảy tùy theo chiều dốc.
Seyyathāpi, bhante, thullaphusitake deve vassante yathāninnaṃ udakāni pavattanti;
Cũng vậy, bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn sẽ đi đến chỗ nào, tại chỗ ấy, các Bà-la-môn gia chủ ở tại thị trấn và quốc độ cũng sẽ đi đến, với tâm hướng về Ngài.
evamevaṃ kho, bhante, yena yeneva dāni bhagavā gamissati tanninnāva bhavissanti brāhmaṇagahapatikā negamā ceva jānapadā ca.
Vì sao?
Taṃ kissa hetu?
Bạch Thế Tôn, do vì giới hạnh và trí tuệ của Thế Tôn.”
Tathā hi, bhante, bhagavato sīlapaññāṇan”ti.
“Này Nāgita, Ta không có liên hệ với danh vọng và danh vọng không có liên hệ gì với Ta.
“Māhaṃ, nāgita, yasena samāgamaṃ, mā ca mayā yaso.
Này Nāgita, những ai tìm được có khó khăn, tìm được có mệt nhọc, tìm được có phí sức an lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc; còn Ta, Ta đã tìm được không khó khăn, tìm được không mệt nhọc, tìm được không phí sức,
Yo kho, nāgita, nayimassa nekkhammasukhassa pavivekasukhassa upasamasukhassa sambodhasukhassa nikāmalābhī assa akicchalābhī akasiralābhī. Yassāhaṃ nekkhammasukhassa pavivekasukhassa upasamasukhassa sambodhasukhassa nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī,
hãy để họ thọ hưởng lạc như phân, thụy miên lạc, lợi dưỡng, cung kính, danh văn lạc ấy.
so taṃ mīḷhasukhaṃ middhasukhaṃ lābhasakkārasilokasukhaṃ sādiyeyya.
Này Nāgita, một số chư Thiên tìm được có khó khăn, tìm được có mệt nhọc, tìm được có phí sức an ổn lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc, mà Ta, Ta đã tìm được không có khó khăn, tìm được không có mệt nhọc, tìm được không có phí sức.
devatāpi kho, nāgita, ekaccā nayimassa nekkhammasukhassa pavivekasukhassa upasamasukhassa sambodhasukhassa nikāmalābhiniyo assu akicchalābhiniyo akasiralābhiniyo, yassāhaṃ nekkhammasukhassa pavivekasukhassa upasamasukhassa sambodhasukhassa nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī.
Này Nāgita, khi nào các Thầy họp với nhau, tụ hội với nhau, sống an trú chú tâm trong nếp sống hội chúng, thời Ta suy nghĩ như sau:
Tumhākampi kho, nāgita, saṅgamma samāgamma saṅgaṇikavihāraṃ anuyuttānaṃ viharataṃ evaṃ hoti:
‘Thật vậy, các Tôn giả này của Ta tìm được có khó khăn, tìm được có mệt nhọc, tìm được có phí sức an ổn lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc này; còn Ta, Ta đã tìm được không có phí sức an ổn lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc.
‘na hi nūname āyasmanto imassa nekkhammasukhassa pavivekasukhassa upasamasukhassa sambodhasukhassa nikāmalābhino assu akicchalābhino akasiralābhino. Yassāhaṃ nekkhammasukhassa pavivekasukhassa upasamasukhassa sambodhasukhassa nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī.
Cho nên các Tôn giả của Ta mới họp với nhau, tụ hội với nhau, sống an trú chú tâm trong nếp sống hội chúng.’
Tathā hi paname āyasmanto saṅgamma samāgamma saṅgaṇikavihāraṃ anuyuttā viharanti’.
4. Này Nāgita, khi nào Ta thấy các Tỷ-kheo, chơi giỡn lấy ngón tay đâm thọc nhau.
Idhāhaṃ, nāgita, bhikkhū passāmi aññamaññaṃ aṅgulipatodakena sañjagghante saṅkīḷante.
Này Nāgita, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, nāgita, evaṃ hoti:
‘Thật vậy, các Tôn giả này của Ta tìm được có khó khăn, tìm được có mệt nhọc, tìm được có phí sức an ổ lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc; còn Ta, Ta đã tìm được… chánh giác lạc.
‘na hi nūname āyasmanto imassa nekkhammasukhassa pavivekasukhassa upasamasukhassa sambodhasukhassa nikāmalābhino assu akicchalābhino akasiralābhino. Yassāhaṃ nekkhammasukhassa pavivekasukhassa upasamasukhassa sambodhasukhassa nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī.
Cho nên các Tôn giả của Ta mới chơi giỡn lấy ngón tay đâm thọc nhau.’
Tathā hi paname āyasmanto aññamaññaṃ aṅgulipatodakena sañjagghanti saṅkīḷanti’.
5. Ở đây, này Nāgita, khi Ta thấy các Tỷ-kheo sau khi ăn cho đến thỏa mãn, cho đến bụng có thể chứa được, rồi sống chú tâm vào lạc nằm xuống, lạc về xúc, lạc về ngủ.
Idha panāhaṃ, nāgita, bhikkhū passāmi yāvadatthaṃ udarāvadehakaṃ bhuñjitvā seyyasukhaṃ passasukhaṃ middhasukhaṃ anuyutte viharante.
Khi ấy, này Nāgita, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, nāgita, evaṃ hoti:
‘Thật sự, các Tôn giả này tìm được có khó khăn, tìm được có mệt nhọc, tìm được có phí sức an ổn lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc; còn Ta thời chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức an ổn lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc;
‘na hi nūname āyasmanto imassa nekkhammasukhassa pavivekasukhassa upasamasukhassa sambodhasukhassa nikāmalābhino assu akicchalābhino akasiralābhino. Yassāhaṃ nekkhammasukhassa pavivekasukhassa upasamasukhassa sambodhasukhassa nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī.
vì rằng các Tôn giả này, sau khi ăn cho đến thỏa mãn, cho đến bụng có thể chứa được, rồi sống chú tâm vào lạc nằm xuống, lạc về xúc, lạc về ngủ.’
Tathā hi paname āyasmanto yāvadatthaṃ udarāvadehakaṃ bhuñjitvā seyyasukhaṃ passasukhaṃ middhasukhaṃ anuyuttā viharanti’.
6. Ở đây, này Nāgita, khi ta thấy Tỷ-kheo trú ở cuối làng, đang ngồi Thiền định.
Idhāhaṃ, nāgita, bhikkhuṃ passāmi gāmantavihāriṃ samāhitaṃ nisinnaṃ.
Này Nāgita, rồi Ta suy nghĩ:
Tassa mayhaṃ, nāgita, evaṃ hoti:
‘Nay người giữ khu vườn sẽ đến quấy rầy, hay một Sa-di sẽ làm vị ấy từ bỏ Thiền định.’
‘idāni imaṃ āyasmantaṃ ārāmiko vā upaṭṭhahissati samaṇuddeso vā. Taṃ tamhā samādhimhā cāvessatī’ti.
Do vậy, này Nāgita, Ta không hoan hỷ Tỷ-kheo ấy trú ở cuối làng.
Tenāhaṃ, nāgita, tassa bhikkhuno na attamano homi gāmantavihārena.
7. Ở đây, này Nāgita, Ta thấy một Tỷ-kheo trú ở rừng đang ngồi ngủ gục ở trong rừng.
Idha panāhaṃ, nāgita, bhikkhuṃ passāmi āraññikaṃ araññe pacalāyamānaṃ nisinnaṃ.
Này Nāgita, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, nāgita, evaṃ hoti:
‘Nay Tôn giả này khi đoạn trừ được buồn ngủ và mỏi mệt, sẽ tác ý đến tưởng về rừng và sống nhất tâm.’
‘idāni ayamāyasmā imaṃ niddākilamathaṃ paṭivinodetvā araññasaññaṃyeva manasi karissati ekattan’ti.
Do vậy, này Nāgita, Ta hoan hỷ với Tỷ-kheo ấy sống ở trong rừng.
Tenāhaṃ, nāgita, tassa bhikkhuno attamano homi araññavihārena.
8. Ở đây, này Nāgita. Ta thấy Tỷ-kheo sống ở rừng đang ngồi không Thiền định ở trong rừng.
Idha panāhaṃ, nāgita, bhikkhuṃ passāmi āraññikaṃ araññe asamāhitaṃ nisinnaṃ.
Này Nāgita, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, nāgita, evaṃ hoti:
‘Nay, vị Tôn giả này sẽ định tĩnh tâm chưa được Thiền định, và sẽ bảo vệ tâm đã được Thiền định.’
‘idāni ayamāyasmā asamāhitaṃ vā cittaṃ samādahissati, samāhitaṃ vā cittaṃ anurakkhissatī’ti.
Do vậy, này Nāgita, Ta hoan hỷ với Tỷ-kheo ấy sống ở trong rừng.
Tenāhaṃ, nāgita, tassa bhikkhuno attamano homi araññavihārena.
9. Ở đây, này Nāgita, Ta thấy Tỷ-kheo ngồi Thiền định ở trong rừng.
Idha panāhaṃ, nāgita, bhikkhuṃ passāmi āraññikaṃ araññe samāhitaṃ nisinnaṃ.
Này Nāgita, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, nāgita, evaṃ hoti:
‘Nay Tôn giả này sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát hay sẽ bảo vệ tâm đã được giải thoát.’
‘idāni ayamāyasmā avimuttaṃ vā cittaṃ vimuccissati, vimuttaṃ vā cittaṃ anurakkhissatī’ti.
Do vậy, này Nāgita, Ta hoan hỷ với Tỷ-kheo sống ở trong rừng.
Tenāhaṃ, nāgita, tassa bhikkhuno attamano homi araññavihārena.
10. Ở đây, này Nàgita, Ta thấy Tỷ-kheo sống ở cuối làng, nhận được vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh,
Idha panāhaṃ, nāgita, bhikkhuṃ passāmi gāmantavihāriṃ lābhiṃ cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccaya-bhesajja-parikkhārānaṃ.
họ thích thú với các lợi dưỡng, cung kính, danh văn ấy, bỏ phế thiền tịnh, bỏ phế các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng,
So taṃ lābhasakkārasilokaṃ nikāmayamāno riñcati paṭisallānaṃ, riñcati araññavanapatthāni pantāni senāsanāni;
đi xuống làng, thị trấn, kinh đô để lo nuôi sống.
gāmanigamarājadhāniṃ osaritvā vāsaṃ kappeti.
Do vậy, này Nāgita, Ta không hoan hỷ với Tỷ-kheo ấy trú ở cuối làng.
Tenāhaṃ, nāgita, tassa bhikkhuno na attamano homi gāmantavihārena.
11. Ở đây, này Nàgita, Ta thấy Tỷ-kheo sống ở rừng nhận được các vật dụng cần thiết như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh,
Idha panāhaṃ, nāgita, bhikkhuṃ passāmi āraññikaṃ lābhiṃ cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccaya-bhesajja-parikkhārānaṃ.
nhưng chận đứng các lợi dưỡng, cung kính, danh văn ấy, không bỏ phế Thiền tịnh, không bỏ phế các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng.
So taṃ lābhasakkārasilokaṃ paṭipaṇāmetvā na riñcati paṭisallānaṃ, na riñcati araññavanapatthāni pantāni senāsanāni.
Do vậy, này Nàgita, Ta hoan hỷ về trú xứ tại rừng của Tỷ-kheo ấy.
Tenāhaṃ, nāgita, tassa bhikkhuno attamano homi araññavihārena.
Khi nào, này Nāgita, Ta đi trên đường, không thấy một ai ở phía trước hay ở phía sau, này Nāgita, khi ấy, Ta cảm thấy sảng khoái cho đến vấn đề đại, tiểu tiện.”
Yasmāhaṃ, nāgita, samaye addhānamaggappaṭipanno na kañci passāmi purato vā pacchato vā, phāsu me, nāgita, tasmiṃ samaye hoti antamaso uccārapassāvakammāyā”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt