Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Dīgha Nikāya – Trường Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Trường Bộ 14

Trường Bộ 14
Dīgha Nikāya 14

Kinh Đại Bổn
Mahāpadānasutta

Tụng phẩm I

Như vậy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ

Một thời, Thế Tôn ở tại nước Sāvatthi (Xá-vệ) rừng Jeta (Kỳ-đà), vườn ông Anāthapindika (Cấp Cô Ðộc), trong am thất cây Kareri (Hoa Lâm).
ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme karerikuṭikāyaṃ.

Lúc bấy giờ, số đông các Tỷ-kheo đi khất thực về, sau khi dùng bữa xong, cùng ngồi và tụ họp lại Hoa Lâm viên đường, pháp thoại thuộc về tiền thân được khởi lên:
Atha kho sambahulānaṃ bhikkhūnaṃ pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantānaṃ karerimaṇḍalamāḷe sannisinnānaṃ sannipatitānaṃ pubbenivāsapaṭisaṃyuttā dhammī kathā udapādi:

“Ðây là tiền thân, đây là tiền thân”.
“itipi pubbenivāso, itipi pubbenivāso”ti.

Thế Tôn, với thiên nhĩ thanh tịnh vượt quá loài người nghe được câu chuyện này giữa các Tỷ-kheo. Rồi Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Hoa Lâm viên đường.
Assosi kho bhagavā dibbāya sotadhātuyā visuddhāya atikkantamānusikāya tesaṃ bhikkhūnaṃ imaṃ kathāsallāpaṃ.

Khi đến xong, Ngài ngồi trên ghế đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn hỏi các Tỷ-kheo:
Atha kho bhagavā uṭṭhāyāsanā yena karerimaṇḍalamāḷo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi, nisajja kho bhagavā bhikkhū āmantesi:

Này các Tỷ-kheo, câu chuyện gì, các người đang ngồi bàn? Câu chuyện gì đã bị gián đoạn giữa các người?
“kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā; kā ca pana vo antarākathā vippakatā”ti?

Khi được nói vậy, những Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, chúng con đi khất thực về, sau khi dùng bữa xong, cùng ngồi và tụ họp tại Hoa Lâm viên đường, pháp thoại về tiền thân được khởi lên: “Ðây là tiền thân, đây là tiền thân”.
Evaṃ vutte, te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ: “idha, bhante, amhākaṃ pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantānaṃ karerimaṇḍalamāḷe sannisinnānaṃ sannipatitānaṃ pubbenivāsapaṭisaṃyuttā dhammī kathā udapādi: ‘itipi pubbenivāso itipi pubbenivāso’ti.

Bạch Thế Tôn, đó là câu chuyện đang được bàn đến giữa chúng con thời Thế Tôn đến.
Ayaṃ kho no, bhante, antarākathā vippakatā. Atha bhagavā anuppatto”ti.

Này các Tỷ-kheo, các người có muốn nghe pháp thuộc thoại về tiền thân không?
“Iccheyyātha no tumhe, bhikkhave, pubbenivāsapaṭisaṃyuttaṃ dhammiṃ kathaṃ sotun”ti?

Bạch Thế Tôn, thật là đúng thời;
“Etassa, bhagavā, kālo; etassa, sugata, kālo;

Bạch Thiện Thệ, thật là đúng thời để Thế Tôn giảng pháp thoại thuộc về tiền thân. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
‘yaṃ bhagavā pubbenivāsapaṭisaṃyuttaṃ dhammiṃ kathaṃ kareyya, bhagavato sutvā bhikkhū dhāressantī”ti.

Vậy này các Tỷ-kheo, các người hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
“Tena hi, bhikkhave, suṇātha sādhukaṃ manasi karotha bhāsissāmī”ti.

Dạ vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo này đáp lời Thế Tôn.
“Evaṃ, bhante”ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.

Thế Tôn giảng như sau:
Bhagavā etadavoca:

Này các Tỷ-kheo, chín mươi mốt kiếp về trước, Thế Tôn Vipassī (Tỳ-bà-thi), bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời.
“Ito so, bhikkhave, ekanavutikappe yaṃ vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho loke udapādi.

Này các Tỷ-kheo, ba mươi mốt kiếp về trước, Thế Tôn Sikhī (Thi-khí) bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời.
Ito so, bhikkhave, ekatiṃse kappe yaṃ sikhī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho loke udapādi.

Này các Tỷ-kheo, cũng trong ba mươi mốt kiếp ấy, Thế Tôn Vessabhū (Tỳ-xá-bà) bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời.
Tasmiññeva kho, bhikkhave, ekatiṃse kappe vessabhū bhagavā arahaṃ sammāsambuddho loke udapādi.

Này các Tỷ-kheo trong hiền kiếp này, Thế Tôn Kakusandha (Câu-lâu-tôn) bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời.
Imasmiññeva kho, bhikkhave, bhaddakappe kakusandho bhagavā arahaṃ sammāsambuddho loke udapādi.

Này các Tỷ-kheo, cũng trong hiền kiếp này, Thế Tôn Konāgamana (Câu-na-hàm) bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời.
Imasmiññeva kho, bhikkhave, bhaddakappe koṇāgamano bhagavā arahaṃ sammāsambuddho loke udapādi.

Này các Tỷ-kheo, cũng trong hiền kiếp này, Thế Tôn Kassapa (Ca-diếp) bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời.
Imasmiññeva kho, bhikkhave, bhaddakappe kassapo bhagavā arahaṃ sammāsambuddho loke udapādi.

Này các Tỷ-kheo, cũng trong hiền kiếp này, nay Ta, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời.
Imasmiññeva kho, bhikkhave, bhaddakappe ahaṃ etarahi arahaṃ sammāsambuddho loke uppanno.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipasī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác sanh thuộc chủng tánh Sát-đế-lỵ, sanh trong giai cấp Sát-đế-lỵ.
Vipassī, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho khattiyo jātiyā ahosi, khattiyakule udapādi.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thuộc chủng tánh Sát-đế-lỵ, sanh trong giai cấp Sát-đế-lỵ.
Sikhī, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho khattiyo jātiyā ahosi, khattiyakule udapādi.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vessabhū, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thuộc chủng tánh Sát-đế-lỵ, sanh trong giai cấp Sát-đế-lỵ.
Vessabhū, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho khattiyo jātiyā ahosi, khattiyakule udapādi.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thuộc chủng tánh Bà-la-môn, sanh trong giai cấp Bà-la-môn.
Kakusandho, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho brāhmaṇo jātiyā ahosi, brāhmaṇakule udapādi.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Konāgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc chủng tánh Bà-la-môn, sanh trong giai cấp Bà-la-môn.
Koṇāgamano, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho brāhmaṇo jātiyā ahosi, brāhmaṇakule udapādi.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc chủng tánh Bà-la-môn, sanh trong giai cấp Bà-la-môn.
Kassapo, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho brāhmaṇo jātiyā ahosi, brāhmaṇakule udapādi.

Này các Tỷ-kheo, nay Ta là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc chủng tánh Sát-đế-lỵ, sanh trong giai cấp Sát-đế-lỵ.
Ahaṃ, bhikkhave, etarahi arahaṃ sammāsambuddho khattiyo jātiyā ahosiṃ, khattiyakule uppanno.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipasī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh Kondanna (Câu-ly-nhã).
Vipassī, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho koṇḍañño gottena ahosi.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh Kondanna.
Sikhī, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho koṇḍañño gottena ahosi.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vessabhū, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh Kondanna.
Vessabhū, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho koṇḍañño gottena ahosi.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh Kassapa.
Kakusandho, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho kassapo gottena ahosi.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Konāgamara, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh Kassapa.
Koṇāgamano, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho kassapo gottena ahosi.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh Kassapa.
Kassapo, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho kassapo gottena ahosi.

Này các Tỷ-kheo, nay Ta là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thuộc danh tánh Gotama (Cù-đàm).
Ahaṃ, bhikkhave, etarahi arahaṃ sammāsambuddho gotamo gottena ahosiṃ.

Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vipassī bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tuổi thọ loài người là 80,000 năm.
Vipassissa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa asītivassasahassāni āyuppamāṇaṃ ahosi.

Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Sikhī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tuổi thọ loài người là 70,000 năm.
Sikhissa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa sattativassasahassāni āyuppamāṇaṃ ahosi.

Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vessabhū, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tuổi thọ loài người là 60,000 năm.
Vessabhussa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa saṭṭhivassasahassāni āyuppamāṇaṃ ahosi.

Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tuổi thọ loài người là 40,000 năm.
Kakusandhassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa cattālīsavassasahassāni āyuppamāṇaṃ ahosi.

Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Konāgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tuổi thọ loài người là 30,000 năm.
Koṇāgamanassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa tiṃsavassasahassāni āyuppamāṇaṃ ahosi.

Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tuổi thọ của loài người là 20,000 năm.
Kassapassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa vīsativassasahassāni āyuppamāṇaṃ ahosi.

Này các Tỷ-kheo, nay tuổi thọ của Ta không bao nhiêu, ít oi, tuổi thọ loài người khoảng 100 năm hay hơn một chút.
Mayhaṃ, bhikkhave, etarahi appakaṃ āyuppamāṇaṃ parittaṃ lahukaṃ; yo ciraṃ jīvati, so vassasataṃ appaṃ vā bhiyyo.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây Pātali (bà-bà-la).
Vipassī, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho pāṭaliyā mūle abhisambuddho.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây Pundarika (phân-đà-ly).
Sikhī, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho puṇḍarīkassa mūle abhisambuddho.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vessabhū, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây Sālassa.
Vessabhū, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho sālassa mūle abhisambuddho.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kakusandho, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây Sirīsassa.
Kakusandho, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho sirīsassa mūle abhisambuddho.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Konāgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây Udumbara (ô-tam-bà-la).
Koṇāgamano, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho udumbarassa mūle abhisambuddho.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây Nigrodha (ni-câu-luật-đà)
Kassapo, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho nigrodhassa mūle abhisambuddho.

Này các Tỷ-kheo, nay Ta là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giác ngộ dưới gốc cây Assattha (bát-đa-la).
Ahaṃ, bhikkhave, etarahi arahaṃ sammāsambuddho assatthassa mūle abhisambuddho.

Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử của Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tên là Khanda (Kiển-trà) và Tissa (Ðề-xá).
Vipassissa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa khaṇḍatissaṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ.

Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử của Thế Tôn Sikhī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tên là Abhibhū (A-tỳ-phù) và Sambhava (Tam-bà-bà).
Sikhissa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa abhibhūsambhavaṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ.

Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử của Thế Tôn Vessabhu, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tên là Sona (Phù-du) và Uttara (Uất-đa-la).
Vessabhussa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa soṇuttaraṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ.

Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử của Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Vidhùra (Tỳ-lâu) và Sañjīva (Tát-ni).
Kakusandhassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa vidhurasañjīvaṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ.

Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử của Thế Tôn Koṇāgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Bhiyyosa (Thư-bàn-na) và Uttara (Uất-đa-la).
Koṇāgamanassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa bhiyyosuttaraṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ.

Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử của Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Tissa (Ðề-xá) và Bhāradvāja (Bà-la-bà).
Kassapassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa tissabhāradvājaṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ.

Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử của Ta là Sāriputta (Xá-lợi-phất) và Moggallāna (Mục-kiền-liên).
Mayhaṃ, bhikkhave, etarahi sāriputtamoggallānaṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ.

Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội: một Tăng hội 6,800,000 Tỷ-kheo, một Tăng hội 100,000 Tỷ-kheo, một Tăng hội 80,000 Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vipassī bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc Lậu tận.
Vipassissa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa tayo sāvakānaṃ sannipātā ahesuṃ. Eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi aṭṭhasaṭṭhibhikkhusatasahassaṃ, eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi bhikkhusatasahassaṃ, eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi asītibhikkhusahassāni. Vipassissa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa ime tayo sāvakānaṃ sannipātā ahesuṃ sabbesaṃyeva khīṇāsavānaṃ.

Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Sikhī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội: một Tăng hội 100,000 Tỷ-kheo, một Tăng hội 80,000 Tỷ-kheo, một Tăng hội 70,000 Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Sikhī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc Lậu tận.
Sikhissa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa tayo sāvakānaṃ sannipātā ahesuṃ. Eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi bhikkhusatasahassaṃ, eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi asītibhikkhusahassāni, eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi sattatibhikkhusahassāni. Sikhissa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa ime tayo sāvakānaṃ sannipātā ahesuṃ sabbesaṃyeva khīṇāsavānaṃ.

Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vessabhū, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội: một Tăng hội 80,000 Tỷ-kheo, một Tăng hội 70,000 Tỷ-kheo, một Tăng hội 60,000 Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vessabhū, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc Lậu tận.
Vessabhussa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa tayo sāvakānaṃ sannipātā ahesuṃ. Eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi asītibhikkhusahassāni, eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi sattatibhikkhusahassāni, eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi saṭṭhibhikkhusahassāni. Vessabhussa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa ime tayo sāvakānaṃ sannipātā ahesuṃ sabbesaṃyeva khīṇāsavānaṃ.

Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có một Tăng hội 40,000Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có một Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc Lậu tận.
Kakusandhassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi cattālīsabhikkhusahassāni. Kakusandhassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa ayaṃ eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi sabbesaṃyeva khīṇāsavānaṃ.

Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Konāgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có một Tăng hội 30,000 Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Konāgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có một Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc Lậu tận.
Koṇāgamanassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi tiṃsabhikkhusahassāni. Koṇāgamanassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa ayaṃ eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi sabbesaṃyeva khīṇāsavānaṃ.

Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có một Tăng hội 20,000 Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có một Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc A-la-hán.
Kassapassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi vīsatibhikkhusahassāni. Kassapassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa ayaṃ eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi sabbesaṃyeva khīṇāsavānaṃ.

Này các Tỷ kheo, nay trong thời của Ta có một Tăng hội 1250 Tỷ-kheo, tất cả đều là bậc Lậu tận.
Mayhaṃ, bhikkhave, etarahi eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi aḍḍhateḷasāni bhikkhusatāni. Mayhaṃ, bhikkhave, ayaṃ eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi sabbesaṃyeva khīṇāsavānaṃ.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Asoka (A-dục), vị này là vị thị giả đệ nhất.
Vipassissa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa asoko nāma bhikkhu upaṭṭhāko ahosi aggupaṭṭhāko.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhī bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Khemankara (Nhẫn Hành), vị này là vị thị giả đệ nhất.
Sikhissa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa khemaṅkaro nāma bhikkhu upaṭṭhāko ahosi aggupaṭṭhāko.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vessabhū, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Upasannaka (Tịch Diệt) vị này là vị thị giả đệ nhất.
Vessabhussa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa upasanto nāma bhikkhu upaṭṭhāko ahosi aggupaṭṭhāko.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Buddhija (Thiện Giác), vị này là thị giả đệ nhất.
Kakusandhassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa buddhijo nāma bhikkhu upaṭṭhāko ahosi aggupaṭṭhāko.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Konāgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Sotthija (An Hòa), vị này là vị thị giả đệ nhất.
Koṇāgamanassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa sotthijo nāma bhikkhu upaṭṭhāko ahosi aggupaṭṭhāko.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kassapa bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Sabbamitta (Thiện Hữu), vị này là vị thị giả đệ nhất.
Kassapassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa sabbamitto nāma bhikkhu upaṭṭhāko ahosi aggupaṭṭhāko.

Này các Tỷ-kheo, nay Ta có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Ānanda (A-nan), vị này là vị thị giả đệ nhất.
Mayhaṃ, bhikkhave, etarahi ānando nāma bhikkhu upaṭṭhāko ahosi aggupaṭṭhāko.

Này các Tỷ-kheo, phụ vương của Thế Tôn Vipassī bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Bandhumā (Bàn-đầu).
Vipassissa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa bandhumā nāma rājā pitā ahosi.

Mẫu hậu tên là Bandhumati (Bàn-đầu-bà-đề).
Bandhumatī nāma devī mātā ahosi janetti.

Kinh thành của vua Bandhumā tên là Bandhumatī.
Bandhumassa rañño bandhumatī nāma nagaraṃ rājadhānī ahosi.

Này các Tỷ-kheo, phụ vương Thế Tôn Sikhī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Aruna (Minh Tướng).
Sikhissa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa aruṇo nāma rājā pitā ahosi.

Mẫu hậu tên là Pabhāvatī (Quang Huy).
Pabhāvatī nāma devī mātā ahosi janetti.

Kinh thành của vua Aruna tên là Aruṇavatī.
Aruṇassa rañño aruṇavatī nāma nagaraṃ rājadhānī ahosi.

Này các Tỷ-kheo, phụ vương Thế Tôn Vessabhū, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Suppatīta (Thiện Ðăng).
Vessabhussa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa suppatito nāma rājā pitā ahosi.

Mẫu hậu tên là Vasavati (Xứng Giới).
Vassavatī nāma devī mātā ahosi janetti.

Kinh thành của vua Suppatita tên là Anoma.
Suppatitassa rañño anomaṃ nāma nagaraṃ rājadhānī ahosi.

Này các Tỷ-kheo, phụ thân Bà-la-môn của Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tên là Aggidatta (Tự Ðắc). Mẫu thân Bà-la-môn tên là Visākhā (Thiện Chi).
Kakusandhassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa aggidatto nāma brāhmaṇo pitā ahosi. Visākhā nāma brāhmaṇī mātā ahosi janetti.

Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ vua trị vì tên là Khema (An Hòa). Kinh thành vua Khema tên là Khemavatī (An Hòa).
Tena kho pana, bhikkhave, samayena khemo nāma rājā ahosi. Khemassa rañño khemavatī nāma nagaraṃ rājadhānī ahosi.

Này các Tỷ-kheo, phụ thân Bà-la-môn của Thế Tôn Konāgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Yaññadatta (Ðạt Ðức). Mẫu thân Bà-la-môn tên là Uttarā (Thiện Thắng).
Koṇāgamanassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa yaññadatto nāma brāhmaṇo pitā ahosi. Uttarā nāma brāhmaṇī mātā ahosi janetti.

Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ, vua trị vì tên là Sobha (Thanh Tịnh). Kinh thành của vua Sobha tên là Sobhavatī (Thanh Tịnh).
Tena kho pana, bhikkhave, samayena sobho nāma rājā ahosi. Sobhassa rañño sobhavatī nāma nagaraṃ rājadhānī ahosi.

Này các Tỷ-kheo, phụ thân Bà-la-môn của Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Brahmadatta (Phạm Thi). Mẫu thân Bà-la-môn tên là Dhanavatī (Tài Chủ).
Kassapassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa brahmadatto nāma brāhmaṇo pitā ahosi. Dhanavatī nāma brāhmaṇī mātā ahosi janetti.

Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ vua trị vì tên là Kikī (Hấp Tỳ). Kinh thành vua Kikī là Baranasī (Ba-la-nại).
Tena kho pana, bhikkhave, samayena kikī nāma rājā ahosi. Kikissa rañño bārāṇasī nāma nagaraṃ rājadhānī ahosi.

Này các Tỷ-kheo, nay phụ vương của Ta tên là Suddhodana (Tịnh Phạn). Mẫu hậu của Ta tên là Māyā (Ma-da). Kinh thành tên là Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ).
Mayhaṃ, bhikkhave, etarahi suddhodano nāma rājā pitā ahosi. Māyā nāma devī mātā ahosi janetti. Kapilavatthu nāma nagaraṃ rājadhānī ahosī”ti.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Idamavoca bhagavā.

Giảng xong Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy, đi vào tịnh xá.
Idaṃ vatvāna sugato uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisi.

Thế Tôn đi ra chẳng bao lâu cuộc đàm thoại sau đây khởi lên giữa những Tỷ-kheo ấy:
Atha kho tesaṃ bhikkhūnaṃ acirapakkantassa bhagavato ayamantarākathā udapādi:

“Này các Hiền giả, thật hy hữu thay! Này các liền giả, thật kỳ diệu thay, đại thần lực, đại oai lực của Như Lai!
“acchariyaṃ, āvuso, abbhutaṃ, āvuso, tathāgatassa mahiddhikatā mahānubhāvatā.

Như Lai nhớ được chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết bàn, đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh của những vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau:
Yatra hi nāma tathāgato atīte buddhe parinibbute chinnapapañce chinnavaṭume pariyādinnavaṭṭe sabbadukkhavītivatte jātitopi anussarissati, nāmatopi anussarissati, gottatopi anussarissati, āyuppamāṇatopi anussarissati, sāvakayugatopi anussarissati, sāvakasannipātatopi anussarissati:

“Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là như vậy”.
‘evaṃjaccā te bhagavanto ahesuṃ itipi, evaṃnāmā evaṅgottā evaṃsīlā evaṃdhammā evaṃpaññā evaṃvihārī evaṃvimuttā te bhagavanto ahesuṃ itipī’”ti.

Này các Hiền giả, quý vị nghĩ như thế nào? Có phải Như Lai khéo chứng đạt pháp giới như vậy, và nhờ chứng đạt pháp giới này, Như Lai nhớ chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết Bàn, đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh các vị này, cũng nhớ đến danh tánh cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: “Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là như vậy?
“Kiṃ nu kho, āvuso, tathāgatasseva nu kho esā dhammadhātu suppaṭividdhā, yassā dhammadhātuyā suppaṭividdhattā tathāgato atīte buddhe parinibbute chinnapapañce chinnavaṭume pariyādinnavaṭṭe sabbadukkhavītivatte jātitopi anussarati, nāmatopi anussarati, gottatopi anussarati, āyuppamāṇatopi anussarati, sāvakayugatopi anussarati, sāvakasannipātatopi anussarati: ‘evaṃjaccā te bhagavanto ahesuṃ itipi, evaṃnāmā evaṅgottā evaṃsīlā evaṃdhammā evaṃpaññā evaṃvihārī evaṃvimuttā te bhagavanto ahesuṃ itipī’ti,

Hay là chư Thiên mách bảo Như Lai và nhờ sự mách bảo này, Như Lai nhớ được các đức Phật quá khứ, các vị này đã nhập Niết bàn đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh các vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: “Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát như thế này?”
udāhu devatā tathāgatassa etamatthaṃ ārocesuṃ, yena tathāgato atīte buddhe parinibbute chinnapapañce chinnavaṭume pariyādinnavaṭṭe sabbadukkhavītivatte jātitopi anussarati, nāmatopi anussarati, gottatopi anussarati, āyuppamāṇatopi anussarati, sāvakayugatopi anussarati, sāvakasannipātatopi anussarati: ‘evaṃjaccā te bhagavanto ahesuṃ itipi, evaṃnāmā evaṅgottā evaṃsīlā evaṃdhammā evaṃpaññā evaṃvihārī evaṃvimuttā te bhagavanto ahesuṃ itipī’”ti.

Như vậy là cuộc đàm thoại đang khởi lên giữa những Tỷ-kheo ấy.
Ayañca hidaṃ tesaṃ bhikkhūnaṃ antarākathā vippakatā hoti.

Bấy giờ Thế Tôn, vào buổi chiều tối, sau khi xuất định, liền đến Hoa Lâm viên đường, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.
Atha kho bhagavā sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yena karerimaṇḍalamāḷo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi.

Sau khi ngồi xong, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
Nisajja kho bhagavā bhikkhū āmantesi:

Này các Tỷ-kheo, nay các Ngươi ngồi luận bàn vấn đề gì? Ðề tài gì đã được luận bàn giữa các Ngươi?
“kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā; kā ca pana vo antarākathā vippakatā”ti?

Khi được hỏi vậy, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đi ra chẳng bao lâu, cuộc đàm thoại sau đây đã khởi lên giữa chúng con: “Này các Hiền giả, thật hy hữu thay! Này các hiền giả thật kỳ diệu thay đại thần lực, đại oai lực của Như Lai! Như Lai nhớ được chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết Bàn, đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh của những vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: “Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là như vậy”. Này các Hiền giả, quý vị nghĩ như thế nào? Có phải Như Lai khéo chứng đạt pháp giới như vậy, và nhờ chứng đạt pháp giới này, Như Lai nhớ chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết bàn, đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh các vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: “Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là như vậy?” Hay là chư Thiên mách bảo Như Lai và nhờ sự mách bảo này, Như Lai nhớ được các đức Phật quá khứ, các vị này đã nhập Niết bàn đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh các vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: “Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát như thế này?”
Evaṃ vutte, te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ: “idha, bhante, amhākaṃ acirapakkantassa bhagavato ayaṃ antarākathā udapādi: ‘acchariyaṃ, āvuso, abbhutaṃ, āvuso, tathāgatassa mahiddhikatā mahānubhāvatā. Yatra hi nāma tathāgato atīte buddhe parinibbute chinnapapañce chinnavaṭume pariyādinnavaṭṭe sabbadukkhavītivatte jātitopi anussarissati, nāmatopi anussarissati, gottatopi anussarissati, āyuppamāṇatopi anussarissati, sāvakayugatopi anussarissati, sāvakasannipātatopi anussarissati: “evaṃjaccā te bhagavanto ahesuṃ itipi, evaṃnāmā evaṅgottā evaṃsīlā evaṃdhammā evaṃpaññā evaṃvihārī evaṃvimuttā te bhagavanto ahesuṃ itipī”ti. Kiṃ nu kho, āvuso, tathāgatasseva nu kho esā dhammadhātu suppaṭividdhā, yassā dhammadhātuyā suppaṭividdhattā tathāgato atīte buddhe parinibbute chinnapapañce chinnavaṭume pariyādinnavaṭṭe sabbadukkhavītivatte jātitopi anussarati, nāmatopi anussarati, gottatopi anussarati, āyuppamāṇatopi anussarati, sāvakayugatopi anussarati, sāvakasannipātatopi anussarati: “evaṃjaccā te bhagavanto ahesuṃ itipi, evaṃnāmā evaṅgottā evaṃsīlā evaṃdhammā evaṃpaññā evaṃvihārī evaṃvimuttā te bhagavanto ahesuṃ itipī”ti. Udāhu devatā tathāgatassa etamatthaṃ ārocesuṃ, yena tathāgato atīte buddhe parinibbute chinnapapañce chinnavaṭume pariyādinnavaṭṭe sabbadukkhavītivatte jātitopi anussarati, nāmatopi anussarati, gottatopi anussarati, āyuppamāṇatopi anussarati, sāvakayugatopi anussarati, sāvakasannipātatopi anussarati: “evaṃjaccā te bhagavanto ahesuṃ itipi, evaṃnāmā evaṅgottā evaṃsīlā evaṃdhammā evaṃpaññā evaṃvihārī evaṃvimuttā te bhagavanto ahesuṃ itipī”’ti?

“Bạch Thế Tôn, như vậy là vấn đề bàn luận giữa chúng con, khi Thế Tôn đến.”
Ayaṃ kho no, bhante, antarākathā vippakatā, atha bhagavā anuppatto”ti.

“Này các Tỷ-kheo, như vậy là pháp giới ấy được khéo chứng đạt bởi Như Lai, và nhờ chứng đạt pháp giới này, Như Lai nhớ được chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết Bàn, đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh của những vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: “Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là như vậy”.
“Tathāgatassevesā, bhikkhave, dhammadhātu suppaṭividdhā, yassā dhammadhātuyā suppaṭividdhattā tathāgato atīte buddhe parinibbute chinnapapañce chinnavaṭume pariyādinnavaṭṭe sabbadukkhavītivatte jātitopi anussarati, nāmatopi anussarati, gottatopi anussarati, āyuppamāṇatopi anussarati, sāvakayugatopi anussarati, sāvakasannipātatopi anussarati: ‘evaṃjaccā te bhagavanto ahesuṃ itipi, evaṃnāmā evaṅgottā evaṃsīlā evaṃdhammā evaṃpaññā evaṃvihārī evaṃvimuttā te bhagavanto ahesuṃ itipī’ti.

Chư Thiên mách bảo Như Lai và nhờ sự mách bảo này, Như Lai nhớ được các đức Phật quá khứ, các vị này đã nhập Niết bàn đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh các vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: “Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát như thế này?”
Devatāpi tathāgatassa etamatthaṃ ārocesuṃ, yena tathāgato atīte buddhe parinibbute chinnapapañce chinnavaṭume pariyādinnavaṭṭe sabbadukkhavītivatte jātitopi anussarati, nāmatopi anussarati, gottatopi anussarati, āyuppamāṇatopi anussarati, sāvakayugatopi anussarati, sāvakasannipātatopi anussarati: ‘evaṃjaccā te bhagavanto ahesuṃ itipi, evaṃnāmā evaṅgottā evaṃsīlā evaṃdhammā evaṃpaññā evaṃvihārī evaṃvimuttā te bhagavanto ahesuṃ itipī’ti.

Này các Tỷ-kheo, các người có muốn nghe pháp thuộc thoại về tiền thân không?
Iccheyyātha no tumhe, bhikkhave, bhiyyoso mattāya pubbenivāsapaṭisaṃyuttaṃ dhammiṃ kathaṃ sotun”ti?

Bạch Thế Tôn, thật là đúng thời; bạch Thiện Thệ, thật là đúng thời!
“Etassa, bhagavā, kālo; etassa, sugata, kālo;

để Thế Tôn giảng pháp thoại thuộc về tiền thân. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.”
yaṃ bhagavā bhiyyoso mattāya pubbenivāsapaṭisaṃyuttaṃ dhammiṃ kathaṃ kareyya, bhagavato sutvā bhikkhū dhāressantī”ti.

Này các Tỷ-kheo, vậy hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
“Tena hi, bhikkhave, suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha, bhāsissāmī”ti.

Thưa vâng, Bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn
“Evaṃ, bhante”ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.

Thế Tôn giảng như sau:
Bhagavā etadavoca:

Này các Tỷ-kheo, cách đây 91 kiếp về trước, Thế Tôn Vipassī bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời.
“Ito so, bhikkhave, ekanavutikappe yaṃ vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho loke udapādi.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc chủng tánh Sát-đế-lỵ, sanh trong giai cấp Sát-đế-lỵ.
Vipassī, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho khattiyo jātiyā ahosi, khattiyakule udapādi.

Này các Tỷ kheo, Thế Tôn Vipassī, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh Kondanna.
Vipassī, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho koṇḍañño gottena ahosi.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tuổi thọ đến 80,000 năm.
Vipassissa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa asītivassasahassāni āyuppamāṇaṃ ahosi.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây Patali (Ba-ba-la).
Vipassī, bhikkhave, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho pāṭaliyā mūle abhisambuddho.

Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử của Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Khanda (Kiển-trà) và Tissa (Ðề-xá).
Vipassissa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa khaṇḍatissaṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ.

Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội:
Vipassissa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa tayo sāvakānaṃ sannipātā ahesuṃ.

Một Tăng hội 6,800,000 Tỷ-kheo, một Tăng hội 100,000 Tỷ-kheo, một Tăng hội 80,000 Tỷ-kheo.
Eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi aṭṭhasaṭṭhibhikkhusatasahassaṃ, eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi bhikkhusatasahassaṃ, eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi asītibhikkhusahassāni.

Tất cả đều là bậc Lậu tận.
Vipassissa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa ime tayo sāvakānaṃ sannipātā ahesuṃ sabbesaṃyeva khīṇāsavānaṃ.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Asoka (A-dục), vị này là vị thị giả đệ nhất.
Vipassissa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa asoko nāma bhikkhu upaṭṭhāko ahosi aggupaṭṭhāko.

Này các Tỷ-kheo, Phụ Vương Thế Tôn Tỳ-bà-thi, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Bandhumā (Bàn-đầu). Mẫu hậu tên là Bandhumatī (Bàn-đầu-bà-đề). Kinh thành của Bandhumā tên là Bandhumatī.
Vipassissa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa bandhumā nāma rājā pitā ahosi. Bandhumatī nāma devī mātā ahosi janetti. Bandhumassa rañño bandhumatī nāma nagaraṃ rājadhānī ahosi.

Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy, Bồ-tát Vipassī, sau khi từ giã cảnh giới Ðâu-suất thiên, chánh niệm tỉnh giác nhập vào mẫu thai. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy.
Atha kho, bhikkhave, vipassī bodhisatto tusitā kāyā cavitvā sato sampajāno mātukucchiṃ okkami. Ayamettha dhammatā.

Khi Bồ-tát Vipassī từ giã cảnh giới Ðâu-suất thiên, chánh niệm tỉnh giác nhập vào mẫu thai. Khi ấy một hào quang vô lượng, thần diệu, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra cùng khắp thế giới, gồm có các thế giới ở trên chư Thiên, thế giới của các Ma vương và Phạm thiên và thế giới ở dưới gồm các vị Sa-môn, Bà-la-môn, các vị hoàng tử và dân chúng.
Dhammatā esā, bhikkhave, yadā bodhisatto tusitā kāyā cavitvā mātukucchiṃ okkamati. Atha sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya appamāṇo uḷāro obhāso pātubhavati atikkammeva devānaṃ devānubhāvaṃ.

Cho đến các cảnh giới ở giữa các thế giới, không có nền tảng, tối tăm, u ám, những cảnh giới mà mặt trăng mặt trời với đại thần lực, đại oai đức như vậy cũng không thể chiếu thấu, trong những cảnh giới ấy một hào quang vô lượng, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra.
Yāpi tā lokantarikā aghā asaṃvutā andhakārā andhakāratimisā, yatthapime candimasūriyā evaṃmahiddhikā evaṃmahānubhāvā ābhāya nānubhonti, tatthapi appamāṇo uḷāro obhāso pātubhavati atikkammeva devānaṃ devānubhāvaṃ.

Và các chúng sanh sống tại những chỗ ấy, nhờ hào quang ấy mới thấy nhau và nói: “Cũng có những chúng sanh khác sống ở đây”.
Yepi tattha sattā upapannā, tepi tenobhāsena aññamaññaṃ sañjānanti: ‘aññepi kira, bho, santi sattā idhūpapannā’ti.

Và mười ngàn thế giới chuyển động, rung động, chuyển động mạnh. Và hào quang vô lượng, thần diệu ấy, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra ở thế giới.
Ayañca dasasahassī lokadhātu saṅkampati sampakampati sampavedhati. Appamāṇo ca uḷāro obhāso loke pātubhavati atikkammeva devānaṃ devānubhāvaṃ.

Pháp nhĩ là như vậy.
Ayamettha dhammatā.

Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ -tát nhập mẫu thai, bốn vị Thiên tử đứng canh gác bốn phương trời và nói: “Không cho một ai, người hay không phải loài người, được hãm hại vị Bồ-tát. Pháp nhĩ là như vậy”.
Dhammatā esā, bhikkhave, yadā bodhisatto mātukucchiṃ okkanto hoti, cattāro naṃ devaputtā catuddisaṃ rakkhāya upagacchanti: ‘mā naṃ bodhisattaṃ vā bodhisattamātaraṃ vā manusso vā amanusso vā koci vā viheṭhesī’ti. Ayamettha dhammatā.

Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát nhập mẫu thai, mẹ vị Bồ-tát giữ giới một cách hồn nhiên, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói láo, không uống các thứ rượu men, rượu nấu. Pháp nhĩ là như vậy.
Dhammatā esā, bhikkhave, yadā bodhisatto mātukucchiṃ okkanto hoti, pakatiyā sīlavatī bodhisattamātā hoti, viratā pāṇātipātā, viratā adinnādānā, viratā kāmesumicchācārā, viratā musāvādā, viratā surāmerayamajjappamādaṭṭhānā. Ayamettha dhammatā.

Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát nhập mẫu thai, mẹ vị Bồ-tát không khởi dục tâm đối với một nam nhân nào, và không vị phạm tiết hạnh với bất kỳ người đàn ông nào dầu người này có tâm ái nhiễm đối với bà. Pháp nhĩ là gì vậy.
Dhammatā esā, bhikkhave, yadā bodhisatto mātukucchiṃ okkanto hoti, na bodhisattamātu purisesu mānasaṃ uppajjati kāmaguṇūpasaṃhitaṃ, anatikkamanīyā ca bodhisattamātā hoti kenaci purisena rattacittena. Ayamettha dhammatā.

Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát nhập mẫu thai, mẹ vị Bồ-tát có được năm món dục lạc đầy đủ, tận hưởng, trọn hưởng năm món dục lạc ấy. Pháp nhĩ là như vậy.
Dhammatā esā, bhikkhave, yadā bodhisatto mātukucchiṃ okkanto hoti, lābhinī bodhisattamātā hoti pañcannaṃ kāmaguṇānaṃ. Sā pañcahi kāmaguṇehi samappitā samaṅgībhūtā paricāreti. Ayamettha dhammatā.

Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát nhập mẫu thai, mẹ vị Bồ-tát không bị một bệnh tật gì. Bà sống với tâm hoan hỷ, với thân khoan khoái. Bà thấy trong bào thai của mình vị Bồ-tát đầy đủ mọi bộ phận và chân tay.
Dhammatā esā, bhikkhave, yadā bodhisatto mātukucchiṃ okkanto hoti, na bodhisattamātu kocideva ābādho uppajjati. Sukhinī bodhisattamātā hoti akilantakāyā, bodhisattañca bodhisattamātā tirokucchigataṃ passati sabbaṅgapaccaṅgiṃ ahīnindriyaṃ.

Này các Tỷ-kheo, ví như viên ngọc lưu ly, thanh tịnh, thuần nhất, có tám cạnh, khéo cắt, khéo giũa, trong sáng, không tỳ vết, hoàn hảo trong mọi phương diện. Rồi một sợi dây được xâu qua viên ngọc ấy, dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hay màu vàng lợt.
Seyyathāpi, bhikkhave, maṇi veḷuriyo subho jātimā aṭṭhaṃso suparikammakato accho vippasanno anāvilo sabbākārasampanno. Tatrāssa suttaṃ āvutaṃ nīlaṃ vā pītaṃ vā lohitaṃ vā odātaṃ vā paṇḍusuttaṃ vā.

Nếu có người có mắt để viên ngọc trên bàn tay của mình, người ấy sẽ thấy rõ ràng: “Ðây là viên ngọc lưu ly, thanh tịnh thuần nhất, có tám cạnh, khéo cắt khéo giũa, trong sáng, không tỳ vết, hoàn hảo trong mọi phương diện. Ðây là sợi dây xâu qua, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hay màu vàng lạt”.
Tamenaṃ cakkhumā puriso hatthe karitvā paccavekkheyya: ‘ayaṃ kho maṇi veḷuriyo subho jātimā aṭṭhaṃso suparikammakato accho vippasanno anāvilo sabbākārasampanno. Tatridaṃ suttaṃ āvutaṃ nīlaṃ vā pītaṃ vā lohitaṃ vā odātaṃ vā paṇḍusuttaṃ vā’ti.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi vị Bồ-tát nhập mẫu thai, mẹ vị Bồ-tát không một bệnh tật gì. Bà sống với tâm hoan hỷ, với thân khoan khoái. Bà thấy trong bào thai của mình vị Bồ-tát đầy đủ mọi bộ phận và chân tay.
Evameva kho, bhikkhave, yadā bodhisatto mātukucchiṃ okkanto hoti, na bodhisattamātu kocideva ābādho uppajjati, sukhinī bodhisattamātā hoti akilantakāyā, bodhisattañca bodhisattamātā tirokucchigataṃ passati sabbaṅgapaccaṅgiṃ ahīnindriyaṃ.

Pháp nhĩ là như vậy.
Ayamettha dhammatā.

Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy, sau khi sanh vị Bồ-tát bảy ngày, mẹ vị Bồ-tát mệnh chung và sanh lên cảnh trời Ðâu suất. Pháp nhĩ là như vậy.
Dhammatā esā, bhikkhave, sattāhajāte bodhisatte bodhisattamātā kālaṃ karoti tusitaṃ kāyaṃ upapajjati. Ayamettha dhammatā.

Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy, trong khi các người đàn bà khác mang bầu thai trong bụng chín tháng hay mười tháng rồi mới sanh, mẹ vị Bồ-tát sanh vị Bồ-tát không phải như vậy. Mẹ vị Bồ-tát mang vị Bồ-tát trong bụng mười tháng trời mới sanh.
Dhammatā esā, bhikkhave, yathā aññā itthikā nava vā dasa vā māse gabbhaṃ kucchinā pariharitvā vijāyanti, na hevaṃ bodhisattaṃ bodhisattamātā vijāyati. Daseva māsāni bodhisattaṃ bodhisattamātā kucchinā pariharitvā vijāyati.

Pháp nhĩ là như vậy.
Ayamettha dhammatā.

Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy, trong khi các người đàn bà khác, hoặc ngồi, hoặc nằm mà sanh con, mẹ vị Bồ-tát sanh vị Bồ-tát không phải như vậy. Mẹ vị Bồ-tát đứng mà sanh vị Bồ-tát.
Dhammatā esā, bhikkhave, yathā aññā itthikā nisinnā vā nipannā vā vijāyanti, na hevaṃ bodhisattaṃ bodhisattamātā vijāyati. Ṭhitāva bodhisattaṃ bodhisattamātā vijāyati.

Pháp nhĩ là như vậy.
Ayamettha dhammatā.

Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, chư Thiên đỡ lấy Ngài trước, sau mới đến loài người. Pháp nhĩ là như vậy.
Dhammatā esā, bhikkhave, yadā bodhisatto mātukucchimhā nikkhamati, devā paṭhamaṃ paṭiggaṇhanti, pacchā manussā. Ayamettha dhammatā.

Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, vị Bồ-tát không đụng đến đất. Có bốn Thiên tử đỡ lấy Ngài, đặt Ngài trước bà mẹ và thưa: “Hoàng hậu hãy hoan hỷ; hoàng hậu sanh một bậc vĩ nhân”.
Dhammatā esā, bhikkhave, yadā bodhisatto mātukucchimhā nikkhamati, appattova bodhisatto pathaviṃ hoti, cattāro naṃ devaputtā paṭiggahetvā mātu purato ṭhapenti: ‘attamanā, devi, hohi; mahesakkho te putto uppanno’ti.

Pháp nhĩ là như vậy.
Ayamettha dhammatā.

Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, Ngài sanh ra thanh tịnh, không bị nhiễm ô bởi nước nhớt nào, không bị nhiễm ô bởi loại mủ nào, không bị nhiễm ô bởi loại máu nào, không bị nhiễm ô bởi bất cứ vật bất tịnh nào, thanh thịnh, trong sạch.
Dhammatā esā, bhikkhave, yadā bodhisatto mātukucchimhā nikkhamati, visadova nikkhamati amakkhito udena amakkhito semhena amakkhito ruhirena amakkhito kenaci asucinā suddho visado.

Pháp nhĩ là như vậy.
Ayamettha dhammatā.

Này các Tỷ-kheo, như viên ngọc ma-ni bảo châu đặt trên một tấm vải Ba-la-nại. Hòn ngọc không làm nhiễm ô tấm vải Ba-la-nại, tấm vải Ba-la-nại cũng không làm nhiễm ô hòn ngọc.
Seyyathāpi, bhikkhave, maṇiratanaṃ kāsike vatthe nikkhittaṃ neva maṇiratanaṃ kāsikaṃ vatthaṃ makkheti, nāpi kāsikaṃ vatthaṃ maṇiratanaṃ makkheti.

Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?

Vì cả hai đều thanh tịnh.
Ubhinnaṃ suddhattā.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo. Khi vị Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, Ngài sanh ra thanh tịnh, không bị nhiễm ô bởi nước nhớt nào, không bị nhiễm ô bởi loại mủ nào, không bị nhiễm ô bởi loại máu nào, không bị nhiễm ô bởi bất cứ sự vật bất tịnh nào, thanh tịnh, trong sạch.
Evameva kho, bhikkhave, yadā bodhisatto mātukucchimhā nikkhamati, visadova nikkhamati amakkhito, udena amakkhito semhena amakkhito ruhirena amakkhito kenaci asucinā suddho visado.

Pháp nhĩ là như vậy.
Ayamettha dhammatā.

Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, hai dòng nước từ hư không hiện ra, một dòng lạnh, một dòng nóng. Hai dòng nước ấy tắm rửa sạch sẽ cho vị Bồ-tát và cho bà mẹ.
Dhammatā esā, bhikkhave, yadā bodhisatto mātukucchimhā nikkhamati, dve udakassa dhārā antalikkhā pātubhavanti—ekā sītassa ekā uṇhassa yena bodhisattassa udakakiccaṃ karonti mātu ca.

Pháp nhĩ là như vậy.
Ayamettha dhammatā.

Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Vị Bồ-tát khi sanh ra, Ngài đứng vững, thăng bằng trên hai chân, mặt hướng phía Bắc, bước đi bảy bước, một lọng trắng được che trên. Ngài nhìn khắp cả mọi phương, lớn tiếng như con ngưu vương, thốt ra lời như sau: “Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta là bậc cao nhất ở trên đời. Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa”.
Dhammatā esā, bhikkhave, sampatijāto bodhisatto samehi pādehi patiṭṭhahitvā uttarābhimukho sattapadavītihārena gacchati setamhi chatte anudhāriyamāne, sabbā ca disā anuviloketi, āsabhiṃ vācaṃ bhāsati ‘aggohamasmi lokassa, jeṭṭhohamasmi lokassa, seṭṭhohamasmi lokassa, ayamantimā jāti, natthi dāni punabbhavo’ti.

Pháp nhĩ là như vậy.
Ayamettha dhammatā.

Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, khi ấy một hào quang vô lượng thần diệu, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra cùng khắp thế giới, gồm có các thế giới trên chư Thiên, thế giới của các Ma vương và Phạm thiên, và thế giới ở dưới gồm các vị Sa-môn, Bà-la-môn, các vị hoàng tử và dân chúng.
Dhammatā esā, bhikkhave, yadā bodhisatto mātukucchimhā nikkhamati, atha sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya appamāṇo uḷāro obhāso pātubhavati, atikkammeva devānaṃ devānubhāvaṃ.

Cho đến các cảnh giới ở giữa các thế giới, không có nền tảng, tối tăm, u ám, những cảnh giới mà mặt trăng, mặt trời với đại thần lực, đại oai đức như vậy cũng không thể chiếu thấu, trong những cảnh giới ấy, một hào quang vô lượng, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra.
Yāpi tā lokantarikā aghā asaṃvutā andhakārā andhakāratimisā, yatthapime candimasūriyā evaṃmahiddhikā evaṃmahānubhāvā ābhāya nānubhonti, tatthapi appamāṇo uḷāro obhāso pātubhavati atikkammeva devānaṃ devānubhāvaṃ.

Và các chúng sanh sống tại những chỗ ấy, nhờ hào quang ấy mới thấy nhau mà nói: “Cũng có những chúng sanh khác sống ở đây”.
Yepi tattha sattā upapannā, tepi tenobhāsena aññamaññaṃ sañjānanti: ‘aññepi kira, bho, santi sattā idhūpapannā’ti.

Và mười ngàn thế giới chuyển động, rung động, chuyển động mạnh. Và hào quang vô lượng thần diệu ấy thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra ở thế giới.
Ayañca dasasahassī lokadhātu saṅkampati sampakampati sampavedhati appamāṇo ca uḷāro obhāso loke pātubhavati atikkammeva devānaṃ devānubhāvaṃ.

Pháp nhĩ là như vậy.
Ayamettha dhammatā.

Này các Tỷ-kheo, khi hoàng tử Vipassī sinh ra, vua Bandhumā được báo tin:
Jāte kho pana, bhikkhave, vipassimhi kumāre bandhumato rañño paṭivedesuṃ:

“Ðại vương đã được sinh một hoàng tử”.
putto te, deva, jāto, taṃ devo passatū’ti.

Này các Tỷ-kheo, khi thấy hoàng tử xong, vua Bandhumā liền cho mời các vị Bà-la-môn đoán tướng và nói:
Addasā kho, bhikkhave, bandhumā rājā vipassiṃ kumāraṃ, disvā nemitte brāhmaṇe āmantāpetvā etadavoca:

“Này các Hiền giả, hãy xem tướng cho Hoàng tử”.
‘passantu bhonto nemittā brāhmaṇā kumāran’ti.

Này các Tỷ-kheo, khi xem tướng Hoàng tử Vipassī xong, các vị Bà-la-môn đoán tướng tâu với vua Bandhumā:
Addasaṃsu kho, bhikkhave, nemittā brāhmaṇā vipassiṃ kumāraṃ, disvā bandhumantaṃ rājānaṃ etadavocuṃ:

“Ðại vương hãy hân hoan; Ðại vương đã sinh một bậc vĩ nhân! May mắn thay cho Ðại vương, đại hạnh thay cho Ðại vương đã được một Hoàng tử như vậy sanh trong gia đình.
attamano, deva, hohi, mahesakkho te putto uppanno, lābhā te, mahārāja, suladdhaṃ te, mahārāja, yassa te kule evarūpo putto uppanno.

Tâu Ðại vương, Hoàng tử này có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của bậc Ðại nhân. Ai có đủ ba mươi hai tướng tốt này sẽ chọn hai con đường này thôi, không có con đường nào khác.
Ayañhi, deva, kumāro dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇehi samannāgato, yehi samannāgatassa mahāpurisassa dveva gatiyo bhavanti anaññā.

Nếu sống tại gia đình, vị này sẽ trở thành vua Chuyển luân Thánh vương, dùng chánh pháp trị nước, bình định bốn phương, đem lại an toàn cho quốc độ, đầy đủ bảy món báu.
Sace agāraṃ ajjhāvasati, rājā hoti cakkavattī dhammiko dhammarājā cāturanto vijitāvī janapadatthāvariyappatto sattaratanasamannāgato.

Bảy món báu trở thành vật sở hữu của vị này. Tức là: xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, gia chủ báu và thứ bảy là tướng quân báu.
Tassimāni sattaratanāni bhavanti. Seyyathidaṃ—cakkaratanaṃ hatthiratanaṃ assaratanaṃ maṇiratanaṃ itthiratanaṃ gahapatiratanaṃ pariṇāyakaratanameva sattamaṃ.

Vị này có đến hơn một ngàn thái tử, những bậc anh hùng, lực sĩ, chinh phục quân thù.
Parosahassaṃ kho panassa puttā bhavanti sūrā vīraṅgarūpā parasenappamaddanā.

Vị này chinh phục cõi đất này cho đến hải biên và trị nước với chánh pháp, không dùng trượng, không dùng đao.
So imaṃ pathaviṃ sāgarapariyantaṃ adaṇḍena asatthena dhammena abhivijiya ajjhāvasati.

Nếu vị này từ bỏ gia đình, xuất gia sống không gia đình, vị này sẽ thành bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vén lui màn vô minh che đời”.
Sace kho pana agārasmā anagāriyaṃ pabbajati, arahaṃ hoti sammāsambuddho loke vivaṭacchado.

“Ðại vương, ba mươi hai tướng tốt của bậc Ðại nhân là gì mà Hoàng tử nếu đầy đủ những tướng tốt này sẽ chọn đi hai con đường, không có con đường nào khác. Nếu sống tại gia đình, vị này sẽ trở thành vua Chuyển luân Thánh vương dùng chánh pháp trị nước, bình định bốn phương, đem lại an toàn cho quốc lộ, đầy đủ bảy món báu. Bảy món báu trở thành vật sở hữu của vị này, tức là xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu và thứ bảy là tướng quân báu. Vị này có đến hơn một ngàn thái tử, những bậc anh hùng, lực sĩ, chinh phục quân thù.
Katamehi cāyaṃ, deva, kumāro dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇehi samannāgato, yehi samannāgatassa mahāpurisassa dveva gatiyo bhavanti anaññā.Sace agāraṃ ajjhāvasati, rājā hoti cakkavattī dhammiko dhammarājā cāturanto vijitāvī janapadatthāvariyappatto sattaratanasamannāgato.Tassimāni sattaratanāni bhavanti.Seyyathidaṃ—cakkaratanaṃ hatthiratanaṃ assaratanaṃ maṇiratanaṃ itthiratanaṃ gahapatiratanaṃ pariṇāyakaratanameva sattamaṃ.Parosahassaṃ kho panassa puttā bhavanti sūrā vīraṅgarūpā parasenappamaddanā.

Vị này chinh phục cõi đất này cho đến hải biên và trị nước với chánh pháp, không dùng trượng, không dùng đao.
So imaṃ pathaviṃ sāgarapariyantaṃ adaṇḍena asatthena dhammena abhivijiya ajjhāvasati.

Nếu vị này từ bỏ gia đình, xuất gia sống không gia đình, vị này sẽ thành bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vén lui màn vô minh che đời.
Sace kho pana agārasmā anagāriyaṃ pabbajati, arahaṃ hoti sammāsambuddho loke vivaṭacchado. Ayañhi, deva, kumāro suppatiṭṭhitapādo. Yaṃ pāyaṃ, deva, kumāro suppatiṭṭhitapādo. Idampissa mahāpurisassa mahāpurisalakkhaṇaṃ bhavati.

“Ðại vương, Hoàng tử này có lòng bàn chân bằng phẳng, tướng này được xem là tướng tốt của bậc Ðại nhân. Ðại vương, dưới hai bàn chân của Hoàng tử này, có hiện ra hình bánh xe, với ngàn tăm xe, với trục xe, vành xe, với các bộ phận hoàn toàn đầy đủ, tướng này được xem là tướng của bậc Ðại nhân.
Imassa, deva, kumārassa heṭṭhā pādatalesu cakkāni jātāni sahassārāni sanemikāni sanābhikāni sabbākāraparipūrāni. Yampi imassa, deva, kumārassa heṭṭhā pādatalesu cakkāni jātāni sahassārāni sanemikāni sanābhikāni sabbākāraparipūrāni, idampissa mahāpurisassa mahāpurisalakkhaṇaṃ bhavati.

“Ðại vương, Hoàng tử này có gót chân thon dài...
Ayañhi, deva, kumāro āyatapaṇhī ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có ngón tay, ngón chân dài...
Ayañhi, deva, kumāro dīghaṅgulī ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có tay chân mềm mại...
Ayañhi, deva, kumāro mudutalunahatthapādo ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có tay chân có màn da lưới...
Ayañhi, deva kumāro jālahatthapādo ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có mắt cá tròn như con sò...
Ayañhi, deva, kumāro ussaṅkhapādo ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có ống chân như con dê rừng...
Ayañhi, deva, kumāro eṇijaṅgho ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này đứng thẳng, không co lưng xuống có thể rờ từ đầu gối với hai bàn tay...
Ayañhi, deva, kumāro ṭhitakova anonamanto ubhohi pāṇitalehi jaṇṇukāni parimasati parimajjati ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có tướng mã âm tàng...
Ayañhi, deva, kumāro kosohitavatthaguyho ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có màu da như đồng, màu sắc như vàng...
Ayañhi, deva, kumāro suvaṇṇavaṇṇo kañcanasannibhattaco ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có da trơn mướt khiến bụi không thể bám dính vào...
Ayañhi, deva, kumāro sukhumacchavī; sukhumattā chaviyā rajojallaṃ kāye na upalimpati ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có lông da mọc từ lông một, mỗi lỗ chân lông có một lông...
Ayañhi, deva, kumāro ekekalomo; ekekāni lomāni lomakūpesu jātāni ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có lông mọc xoáy tròn thẳng lên, mỗi sợi lông đều vậy, màu xanh đậm như thuốc bôi mắt, xoáy lên từng xoáy tròn nhỏ, và xoáy về hướng mặt...
Ayañhi, deva, kumāro uddhaggalomo; uddhaggāni lomāni jātāni nīlāni añjanavaṇṇāni kuṇḍalāvaṭṭāni dakkhiṇāvaṭṭakajātāni ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có thân hình cao thẳng như Phạm Thiên...
Ayañhi, deva, kumāro brahmujugatto ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có bảy chỗ tròn đầy...
Ayañhi, deva, kumāro sattussado ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có nửa thân trước như con sư tử...
Ayañhi, deva, kumāro sīhapubbaddhakāyo ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này không có lõm khuyết giữa hai vai...
Ayañhi, deva, kumāro citantaraṃso ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có thân thể cân đối như cây bàng (nigrodha: ni-câu-luật). Bề cao của thân ngang bằng bề dài của hai tay sải rộng, bề dài của hai tay sải rộng ngang bằng bề cao của thân...
Ayañhi, deva, kumāro nigrodhaparimaṇḍalo yāvatakvassa kāyo tāvatakvassa byāmo, yāvatakvassa byāmo, tāvatakvassa kāyo ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có bán thân trên vuông tròn...
Ayañhi, deva, kumāro samavaṭṭakkhandho ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có vị giác hết sức sắc bén...
Ayañhi, deva, kumāro rasaggasaggī ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có quai hàm như con sư tử..
Ayañhi, deva, kumāro sīhahanu ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có 40 răng...
Ayañhi, deva, kumāro cattālīsadanto ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có răng đều đặn...
Ayañhi, deva, kumāro samadanto ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có răng không khuyết hở...
Ayañhi, deva, kumāro aviraḷadanto ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có răng cửa (thái xỉ) trơn láng...
Ayañhi, deva, kumāro susukkadāṭho ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có tướng lưỡi rộng dài...
Ayañhi, deva, kumāro pahūtajivho ...pe...

Ðại vương, Hoàng tử này có giọng nói tuyệt diệu như Phạm Thiên, như tiếng chim ca-lăng-tần-già (Karavika)...
Ayañhi, deva, kumāro brahmassaro karavīkabhāṇī ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có hai mắt màu xanh đậm...
Ayañhi, deva, kumāro abhinīlanetto ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này có lông mi con bò cái...
Ayañhi, deva, kumāro gopakhumo ...pe...

“Ðại vương, Hoàng tử này giữa hai lông mày, có sợi lông trắng mọc lên, mịn màng như bông nhẹ...
Imassa, deva, kumārassa uṇṇā bhamukantare jātā odātā mudutūlasannibhā. Yampi imassa, deva, kumārassa uṇṇā bhamukantare jātā odātā mudutūlasannibhā, idampimassa mahāpurisassa mahāpurisalakkhaṇaṃ bhavati.

“Ðại vương, Hoàng tử này có nhục kế trên đầu, tướng này được xem là tướng tốt của bậc Ðại nhân...
Ayañhi, deva, kumāro uṇhīsasīso. Yaṃ pāyaṃ, deva, kumāro uṇhīsasīso, idampissa mahāpurisassa mahāpurisalakkhaṇaṃ bhavati.

“Ðại vương, Hoàng tử có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của bậc Ðại nhân, với ba mươi hai tướng tốt này, Hoàng tử sẽ chọn đi hai con đường, không có con đường nào khác.
Imehi kho ayaṃ, deva, kumāro dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇehi samannāgato, yehi samannāgatassa mahāpurisassa dveva gatiyo bhavanti anaññā.

Nếu sống tại gia đình, Hoàng tử sẽ trở thành vua Chuyển luân Thánh vương, đem lại an toàn cho quốc độ, đầy đủ bảy món báu. Bảy món báu trở thành sở hữu của Ngài, tức là xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu, và thứ bảy là tướng quân báu. Vị này có đến hơn một ngàn thái tử, những bậc anh hùng, lực sĩ, chinh phục quân thù. Vị này chinh phục quả đất này cho đến hải biên và trị nước với chánh pháp, không dùng trượng, không dùng đao.
Sace agāraṃ ajjhāvasati, rājā hoti cakkavattī dhammiko dhammarājā cāturanto vijitāvī janapadatthāvariyappatto sattaratanasamannāgato.Tassimāni sattaratanāni bhavanti.Seyyathidaṃ—cakkaratanaṃ hatthiratanaṃ assaratanaṃ maṇiratanaṃ itthiratanaṃ gahapatiratanaṃ pariṇāyakaratanameva sattamaṃ.Parosahassaṃ kho panassa puttā bhavanti sūrā vīraṅgarūpā parasenappamaddanā.So imaṃ pathaviṃ sāgarapariyantaṃ adaṇḍena asatthena dhammena abhivijiya ajjhāvasati.

Nếu Hoàng tử từ bỏ gia đình, xuất gia sống không gia đình, Hoàng tử sẽ thành bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vén lui màn vô minh che đời”.
’Sace kho pana agārasmā anagāriyaṃ pabbajati, arahaṃ hoti sammāsambuddho loke vivaṭacchado’ti.

Này các Tỷ-kheo, Vua Bandhumā ra lệnh cúng dường các vị Bà-la-môn đoán tướng ấy, các áo vải mới và làm thỏa mãn mọi sự đòi hỏi ước muốn.
Atha kho, bhikkhave, bandhumā rājā nemitte brāhmaṇe ahatehi vatthehi acchādāpetvā sabbakāmehi santappesi.

Này các Tỷ-kheo, rồi vua Bandhumà cho nuôi những người vú cho hoàng tử Vipassī.
Atha kho, bhikkhave, bandhumā rājā vipassissa kumārassa dhātiyo upaṭṭhāpesi.

Người cho bú, người tắm, người lo bồng ẵm, người mang trên nách.
Aññā khīraṃ pāyenti, aññā nhāpenti, aññā dhārenti, aññā aṅkena pariharanti.

Này các Tỷ-kheo, một lọng trắng ngày đêm được che trên hoàng tử Vipassī, và lệnh được truyền ra:
Jātassa kho pana, bhikkhave, vipassissa kumārassa setacchattaṃ dhārayittha divā ceva rattiñca:

“Không được để lạnh hay nóng, cỏ, bụi, hay sương làm phiền hoàng tử”.
‘mā naṃ sītaṃ vā uṇhaṃ vā tiṇaṃ vā rajo vā ussāvo vā bādhayitthā’ti.

Hoàng tử Vipassī được mọi người âu yếm.
Jāto kho pana, bhikkhave, vipassī kumāro bahuno janassa piyo ahosi manāpo.

Này các Tỷ-kheo, cũng như hoa sen xanh, hoa sen hồng, hay hoa sen trắng được mọi người yêu thích; Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassī được mọi người âu yếm. Gần như được ẵm từ nách này qua nách người khác.
Seyyathāpi, bhikkhave, uppalaṃ vā padumaṃ vā puṇḍarīkaṃ vā bahuno janassa piyaṃ manāpaṃ;evameva kho, bhikkhave, vipassī kumāro bahuno janassa piyo ahosi manāpo. Svāssudaṃ aṅkeneva aṅkaṃ parihariyati.

Này các Tỷ-kheo, khi hoàng tử Vipassī được sinh ra, hoàng tử phát âm rất là tuyệt diệu, âm vận điều hòa, dịu ngọt và hấp dẫn.
Jāto kho pana, bhikkhave, vipassī kumāro mañjussaro ca ahosi vaggussaro ca madhurassaro ca pemaniyassaro ca.

Này các Tỷ-kheo, giống như con chim ca-lăng-tân-già sinh trong núi Hy-mã-lạp sơn, giọng chim rất là tuyệt diệu, âm vận điều hòa, dịu ngọt và hấp dẫn. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, Hoàng Tử Vipassī phát âm rất là tuyệt diệu, âm vận điều hòa, dịu ngọt và hấp dẫn.
Seyyathāpi, bhikkhave, himavante pabbate karavīkā nāma sakuṇajāti mañjussarā ca vaggussarā ca madhurassarā ca pemaniyassarā ca;evameva kho, bhikkhave, vipassī kumāro mañjussaro ca ahosi vaggussaro ca madhurassaro ca pemaniyassaro ca.

Này các Tỷ-kheo, khi hoàng tử Vipassī sanh ra, Thiên nhãn hiện ra với Ngài, do nghiệp báo sanh, và nhờ Thiên nhãn ấy, Ngài có thể nhìn khắp chung quanh đến một do tuần, ban ngày cũng như ban đêm.
Jātassa kho pana, bhikkhave, vipassissa kumārassa kammavipākajaṃ dibbacakkhu pāturahosi yena sudaṃ samantā yojanaṃ passati divā ceva rattiñca.

Này các Tỷ-kheo, khi hoàng tử Vipassī sanh ra, Ngài nhìn thẳng sự vật với cặp mắt không nhấp nháy, như hàng Thiên ở Tam thập tam thiên.
Jāto kho pana, bhikkhave, vipassī kumāro animisanto pekkhati seyyathāpi devā tāvatiṃsā.

Vì hoàng tử Vipassī nhìn không nhấp nháy, nên này các Tỷ-kheo, hoàng tử được gọi tên là “Vipassī” – “Vị đã nhìn thấy”
‘Animisanto kumāro pekkhatī’ti kho, bhikkhave, vipassissa kumārassa ‘vipassī vipassī’ tveva samaññā udapādi.

Này các Tỷ-kheo, khi vua Bandhumā ngồi xử kiện, vua cho đặt hoàng tử Vipassī ngồi bên nách mình để xử kiện.
Atha kho, bhikkhave, bandhumā rājā atthakaraṇe nisinno vipassiṃ kumāraṃ aṅke nisīdāpetvā atthe anusāsati.

Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassī ngồi bên nách vua cha như vậy và chú tâm quan sát phương thức xử kiện đến nỗi tự mình cũng có thể phán đoán xử kiện.
Tatra sudaṃ, bhikkhave, vipassī kumāro pituaṅke nisinno viceyya viceyya atthe panāyati ñāyena.

Này các Tỷ-kheo, do hoàng tử Vipassī “có thể quan sát và xử kiện đúng luật pháp” và danh từ “Vipassī” càng được dùng để đặt tên cho Ngài.
Viceyya viceyya kumāro atthe panāyati ñāyenāti kho, bhikkhave, vipassissa kumārassa bhiyyoso mattāya ‘vipassī vipassī’ tveva samaññā udapādi.

Này các Tỷ-kheo, rồi vua Bandhumā cho xây dựng ba tòa lâu đài cho hoàng tử Vipassī, một cho mùa mưa, một cho mùa đông, một cho mùa lạnh; và năm món dục lạc đều được chuẩn bị đầy đủ.
Atha kho, bhikkhave, bandhumā rājā vipassissa kumārassa tayo pāsāde kārāpesi, ekaṃ vassikaṃ ekaṃ hemantikaṃ ekaṃ gimhikaṃ; pañca kāmaguṇāni upaṭṭhāpesi.

Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassī sống bốn tháng mưa trong lâu đài dành cho mùa mưa, được hầu hạ mua vui với các nữ nhạc sĩ, và không một lần nào, Ngài bước xuống khỏi lầu.
Tatra sudaṃ, bhikkhave, vipassī kumāro vassike pāsāde cattāro māse nippurisehi tūriyehi paricārayamāno na heṭṭhāpāsādaṃ orohatīti.

Tụng phẩm II

Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassī, sau thời gian nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, cho gọi người đánh xe:
Atha kho, bhikkhave, vipassī kumāro bahūnaṃ vassānaṃ bahūnaṃ vassasatānaṃ bahūnaṃ vassasahassānaṃ accayena sārathiṃ āmantesi:

“Này khanh, hãy cho thắng các cỗ xe thù thắng, chúng ta sẽ đi đến vườn ngự uyển để xem phong cảnh”
‘yojehi, samma sārathi, bhaddāni bhaddāni yānāni uyyānabhūmiṃ gacchāma subhūmidassanāyā’ti.

“Thưa vâng, Hoàng Tử”. Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng lời hoàng tử Vipassī, cho thắng các cỗ xe thù thắng rồi bạch hoàng tử Vipassī:
Evaṃ, devā’ti kho, bhikkhave, sārathi vipassissa kumārassa paṭissutvā bhaddāni bhaddāni yānāni yojetvā vipassissa kumārassa paṭivedesi:

“Tâu Hoàng tử, các cỗ xe thù thắng đã thắng xong, ‘hãy làm những gì Hoàng tử xem là hợp thời’”.
‘yuttāni kho te, deva, bhaddāni bhaddāni yānāni, ’yassadāni kālaṃ maññasī’ti.

Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ hoàng tử Vipassī leo lên cỗ xe thù thắng và cùng với các cỗ xe thù thắng khác, tiến đến vườn ngự uyển.
Atha kho, bhikkhave, vipassī kumāro bhaddaṃ bhaddaṃ yānaṃ abhiruhitvā bhaddehi bhaddehi yānehi uyyānabhūmiṃ niyyāsi.

Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassī trên đường đi đến vườn ngự uyển, thấy một người già nua, lưng còng như nóc nhà, chống gậy, vừa đi vừa run rẩy, khổ não, không còn đâu là tuổi trẻ.
Addasā kho, bhikkhave, vipassī kumāro uyyānabhūmiṃ niyyanto purisaṃ jiṇṇaṃ gopānasivaṅkaṃ bhoggaṃ daṇḍaparāyanaṃ pavedhamānaṃ gacchantaṃ āturaṃ gatayobbanaṃ.

Thấy vậy hoàng tử hỏi người đánh xe:
Disvā sārathiṃ āmantesi:

“Này khanh, người đó là ai vậy? Sao thân người đó không giống các người khác?”
ayaṃ pana, samma sārathi, puriso kiṅkato? ’Kesāpissa na yathā aññesaṃ, kāyopissa na yathā aññesan’ti.

“Tâu Hoàng tử, người đó là một người được gọi là già vậy”.
‘Eso kho, deva, jiṇṇo nāmā’ti.

“Này khanh, sao người ấy được gọi là một người già?”
‘Kiṃ paneso, samma sārathi, jiṇṇo nāmā’ti?

“Tâu Hoàng tử, người ấy gọi là già vì nay người ấy sống không bao lâu nữa”.
‘Eso kho, deva, jiṇṇo nāma. Na dāni tena ciraṃ jīvitabbaṃ bhavissatī’ti.

“Này khanh, vậy rồi Ta có bị già không, một người chưa qua tuổi già?”
‘Kiṃ pana, samma sārathi, ahampi jarādhammo, jaraṃ anatīto’ti?

“Tâu Hoàng tử, Hoàng tử và cả con nữa, chúng ta tất cả sẽ bị già nua, dầu chúng ta chưa qua tuổi già!”
‘Tvañca, deva, mayañcamha sabbe jarādhammā, jaraṃ anatītā’ti.

“Này khanh, thôi nay thăm vườn ngự uyển như vậy là vừa rồi. Hãy cho đánh xe trở về cung”.
‘Tena hi, samma sārathi, alaṃ dānajja uyyānabhūmiyā. Itova antepuraṃ paccaniyyāhī’ti.

“Thưa vâng, Hoàng tử”. Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng theo lời hoàng tử, cho đánh xe trở về cung.
Evaṃ, devā’ti kho, bhikkhave, sārathi vipassissa kumārassa paṭissutvā tatova antepuraṃ paccaniyyāsi.

Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassī về trong cung, đau khổ, sầu muộn và suy nghĩ:
Tatra sudaṃ, bhikkhave, vipassī kumāro antepuraṃ gato dukkhī dummano pajjhāyati:

“Sỉ nhục thay, cái gọi là sanh. Và ai sanh ra cũng phải già yếu như vậy!”.
‘dhiratthu kira, bho, jāti nāma, yatra hi nāma jātassa jarā paññāyissatī’ti.

Này các Tỷ-kheo, khi ấy vua Bandhumā cho gọi người đánh xe và hỏi:
Atha kho, bhikkhave, bandhumā rājā sārathiṃ āmantāpetvā etadavoca:

“Này khanh, Hoàng tử có vui vẻ không, tại vườn ngự uyển? “Này khanh, Hoàng tử có hoan hỷ không, tại vườn ngự uyển?”.
‘kacci, samma sārathi, kumāro uyyānabhūmiyā abhiramittha? Kacci, samma sārathi, kumāro uyyānabhūmiyā attamano ahosī’ti?

“Tâu Ðại vương, Hoàng tử không có vui vẻ tại vườn ngự uyển. Tâu Ðại vương, Hoàng tử không có hoan hỷ, tại vườn ngự uyển”
‘Na kho, deva, kumāro uyyānabhūmiyā abhiramittha, na kho, deva, kumāro uyyānabhūmiyā attamano ahosī’ti.

“Này khanh, khi đến vườn ngự uyển, Hoàng tử đã thấy gì?”
‘Kiṃ pana, samma sārathi, addasa kumāro uyyānabhūmiṃ niyyanto’ti?

“Tâu đại vương, Hoàng tử trong khi đi đến vườn ngự uyển, thấy một người già nua, lưng còng như nóc nhà, chống gậy vừa đi vừa run rẩy, khổ não không còn đâu là tuổi trẻ. Thấy vậy, Hoàng tử hỏi con: “Này khanh, người đó là ai vậy? Sao tóc người đó không giống các người khác? Sao thân người đó không giống các người khác?”. “Tâu Hoàng tử, người ấy được gọi là vậy”. “Này khanh, sao người ấy được gọi là người già?. “Tâu Hoàng tử, người ấy gọi là già, vì nay người ấy sống không bao lâu nữa”. “Này khanh, vậy rồi Ta có phải bị già không, một người chưa qua tuổi già?”. “Tâu Hoàng tử, Hoàng tử và cả con nữa, chúng ta tất cả sẽ bị già nua, dầu chúng ta chưa qua tuổi già”.
‘Addasā kho, deva, kumāro uyyānabhūmiṃ niyyanto purisaṃ jiṇṇaṃ gopānasivaṅkaṃ bhoggaṃ daṇḍaparāyanaṃ pavedhamānaṃ gacchantaṃ āturaṃ gatayobbanaṃ.Disvā maṃ etadavoca:“ayaṃ pana, samma sārathi, puriso kiṅkato, kesāpissa na yathā aññesaṃ, kāyopissa na yathā aññesan”ti?“Eso kho, deva, jiṇṇo nāmā”ti.“Kiṃ paneso, samma sārathi, jiṇṇo nāmā”ti?“Eso kho, deva, jiṇṇo nāma na dāni tena ciraṃ jīvitabbaṃ bhavissatī”ti.“Kiṃ pana, samma sārathi, ahampi jarādhammo, jaraṃ anatīto”ti? “Tvañca, deva, mayañcamha sabbe jarādhammā, jaraṃ anatītā”ti.

“Này khanh, thôi nay thăm vườn ngự uyển như vậy vừa rồi. Hãy cho đánh xe trở về cung”. “Thưa vâng, Hoàng Tử!”. Tâu Ðại vương, con vâng lời Hoàng tử Vipassī, cho đánh xe trở về cung. Tâu Ðại vương, Hoàng tử trở về cung, đau khổ, sầu muộn và suy nghĩ. “Sỉ nhục thay, cái gọi là sanh. Và ai sanh ra cũng phải già yếu như vậy”.
“Tena hi, samma sārathi, alaṃ dānajja uyyānabhūmiyā, itova antepuraṃ paccaniyyāhī”ti.“Evaṃ, devā”ti kho ahaṃ, deva, vipassissa kumārassa paṭissutvā tatova antepuraṃ paccaniyyāsiṃ.So kho, deva, kumāro antepuraṃ gato dukkhī dummano pajjhāyati:“dhiratthu kira, bho, jāti nāma, yatra hi nāma jātassa jarā paññāyissatī”’ti.

Này các Tỷ-kheo, khi ấy vua Bandhumā suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, bandhumassa rañño etadahosi:

“Không thể để cho hoàng tử Vipassī từ chối không trị vì. Không thể để cho Hoàng tử Vipassī xuất gia. Không thể để cho lời của các vị Bà-la-môn đoán tướng trở thành sự thật”.
‘Mā heva kho vipassī kumāro na rajjaṃ kāresi, mā heva vipassī kumāro agārasmā anagāriyaṃ pabbaji, mā heva nemittānaṃ brāhmaṇānaṃ saccaṃ assa vacanan’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi vua Bandhumā lại sắp đặt cho hoàng tử Vipassī đầy đủ năm món dục lạc nhiều hơn nữa, để hoàng tử Vipassī có thể trị vì, để hoàng tử Vipassī khỏi phải xuất gia, để cho lời các vị Bà-la-môn đoán tướng không trúng sự thật.
Atha kho, bhikkhave, bandhumā rājā vipassissa kumārassa bhiyyoso mattāya pañca kāmaguṇāni upaṭṭhāpesi:‘yathā vipassī kumāro rajjaṃ kareyya, yathā vipassī kumāro na agārasmā anagāriyaṃ pabbajeyya, yathā nemittānaṃ brāhmaṇānaṃ micchā assa vacanan’ti.

Và, này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassī sống tận hưởng đầy đủ sung túc năm món dục lạc.
Tatra sudaṃ, bhikkhave, vipassī kumāro pañcahi kāmaguṇehi samappito samaṅgībhūto paricāreti.

Này các Tỷ-kheo hoàng tử Vipassī, sau thời gian nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm cho gọi người đánh xe ...nt...
Atha kho, bhikkhave, vipassī kumāro bahūnaṃ vassānaṃ ...pe...

Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassī, khi đang đi đến vườn ngự uyển, thấy một người bệnh hoạn, khổ não, nguy kịch, bò lết trong tiểu tiện, đại tiện của mình, cần có người khác nâng đỡ, cần có người khác dìu dắt.
Addasā kho, bhikkhave, vipassī kumāro uyyānabhūmiṃ niyyanto purisaṃ ābādhikaṃ dukkhitaṃ bāḷhagilānaṃ sake muttakarīse palipannaṃ semānaṃ aññehi vuṭṭhāpiyamānaṃ aññehi saṃvesiyamānaṃ.

Thấy vậy, hoàng tử hỏi người đánh xe:
Disvā sārathiṃ āmantesi:

“Này khanh, người này đã làm gì?
ayaṃ pana, samma sārathi, puriso kiṅkato?

Mà mắt của nó không giống mắt của những người khác, giọng nói của nó không giống giọng nói của những người khác?”
’Akkhīnipissa na yathā aññesaṃ, saropissa na yathā aññesan’ti?

“Tâu Hoàng tử, đó là một người được gọi là một người bệnh vậy”.
‘Eso kho, deva, byādhito nāmā’ti.

“Này khanh, sao người ấy được gọi là một người bệnh?”
‘Kiṃ paneso, samma sārathi, byādhito nāmā’ti?

“Tâu Hoàng tử, người ấy được gọi là một người bệnh vì người ấy chưa thoát khỏi căn bệnh của mình”
‘Eso kho, deva, byādhito nāma appeva nāma tamhā ābādhā vuṭṭhaheyyā’ti.

“Này khanh, vậy rồi ta có bị bệnh không, một người chưa bị bệnh?”
‘Kiṃ pana, samma sārathi, ahampi byādhidhammo, byādhiṃ anatīto’ti?

‘”Tâu Hoàng tử, Hoàng tử và cả con nữa, tất cả chúng ta sẽ bị bệnh tật, dầu chúng ta chưa bị bệnh tật”.
‘Tvañca, deva, mayañcamha sabbe byādhidhammā, byādhiṃ anatītā’ti.

“Này khanh, thôi nay thăm vườn ngự uyển như vậy vừa rồi. Hãy cho đánh xe trở về cung”
‘Tena hi, samma sārathi, alaṃ dānajja uyyānabhūmiyā, itova antepuraṃ paccaniyyāhī’ti.

“Thưa vâng, Hoàng tử”. Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng theo lời hoàng tử cho đánh xe trở về cung.
Evaṃ, devā’ti kho, bhikkhave, sārathi vipassissa kumārassa paṭissutvā tatova antepuraṃ paccaniyyāsi.

Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassī về trong cung, đau khổ, sầu muộn và suy nghĩ:
Tatra sudaṃ, bhikkhave, vipassī kumāro antepuraṃ gato dukkhī dummano pajjhāyati:

“Sỉ nhục thay, cái gọi là sanh! Và ai sanh ra, cũng phải già, cũng phải bệnh!”
‘dhiratthu kira, bho, jāti nāma, yatra hi nāma jātassa jarā paññāyissati, byādhi paññāyissatī’ti.

Này các Tỷ-kheo, khi ấy vua Bandhumà cho gọi người đánh xe và hỏi:
Atha kho, bhikkhave, bandhumā rājā sārathiṃ āmantāpetvā etadavoca:

“Này khanh, Hoàng tử có vui vẻ không tại vườn ngự uyển? Hoàng tử có hoan hỷ không tại vườn ngự uyển?”
‘kacci, samma sārathi, kumāro uyyānabhūmiyā abhiramittha, kacci, samma sārathi, kumāro uyyānabhūmiyā attamano ahosī’ti?

“Tâu Ðại vương, Hoàng tử không có vui vẻ tại vườn ngự uyển. Tâu Ðại vương, Hoàng tử không có hoan hỷ tại vườn ngự uyển”
‘Na kho, deva, kumāro uyyānabhūmiyā abhiramittha, na kho, deva, kumāro uyyānabhūmiyā attamano ahosī’ti.

“Này khanh, khi đi đến vườn ngự uyển, Hoàng tử đã thấy gì?”
‘Kiṃ pana, samma sārathi, addasa kumāro uyyānabhūmiṃ niyyanto’ti?

“Tâu Ðại vương, Hoàng tử trong khi đến vườn ngự uyển thấy một người bệnh hoạn, khổ não, nguy kịch, bò lết trong tiểu tiện, đại tiện của mình, cần có người khác nâng đỡ, cần có người khác dìu dắt. Thấy vậy, Hoàng tử hỏi con: “Này khanh, người đó đã làm gì mà mắt của nó không giống mắt của người khác, giọng nói của nó không giống giọng nói của những người khác?”. “Tâu Hoàng tử, đó là một người được gọi là môt người bệnh” Vậy: “Này khanh, sao người ấy được gọi là một người bệnh?”. “Tâu Hoàng tử, người ấy được gọi là người bệnh, vì người ấy chưa khỏi căn bệnh của mình!”. “Này khanh, vậy rồi ta có bị bệnh không, môt người chưa bị bệnh?”. “Tâu Hoàng tử, Hoàng tử và cả con nữa, tất cả chúng ta sẽ bị bệnh tật, dầu chúng ta chưa bị bệnh tật”.
‘Addasā kho, deva, kumāro uyyānabhūmiṃ niyyanto purisaṃ ābādhikaṃ dukkhitaṃ bāḷhagilānaṃ sake muttakarīse palipannaṃ semānaṃ aññehi vuṭṭhāpiyamānaṃ aññehi saṃvesiyamānaṃ.Disvā maṃ etadavoca:“ayaṃ pana, samma sārathi, puriso kiṅkato, akkhīnipissa na yathā aññesaṃ, saropissa na yathā aññesan”ti?“Eso kho, deva, byādhito nāmā”ti.“Kiṃ paneso, samma sārathi, byādhito nāmā”ti?“Eso kho, deva, byādhito nāma appeva nāma tamhā ābādhā vuṭṭhaheyyā”ti.“Kiṃ pana, samma sārathi, ahampi byādhidhammo, byādhiṃ anatīto”ti?“Tvañca, deva, mayañcamha sabbe byādhidhammā, byādhiṃ anatītā”ti.

“Này khanh, thôi nay thăm vườn ngự uyển như vậy vừa rồi! Hãy cho đánh xe trở về cung”. “Thưa vâng, Hoàng tử”. Con vâng theo lời Hoàng tử cho đánh xe trở về cung. Tâu Ðại vương, Hoàng tử về trong cung, đau khổ, sầu muộn và suy nghĩ: “Sỉ nhục thay, cái gọi là sanh! Và ai sanh ra, cũng phải già, cũng phải bệnh!”.
“Tena hi, samma sārathi, alaṃ dānajja uyyānabhūmiyā, itova antepuraṃ paccaniyyāhī”ti.“Evaṃ, devā”ti kho ahaṃ, deva, vipassissa kumārassa paṭissutvā tatova antepuraṃ paccaniyyāsiṃ.So kho, deva, kumāro antepuraṃ gato dukkhī dummano pajjhāyati:“dhiratthu kira, bho, jāti nāma, yatra hi nāma jātassa jarā paññāyissati, byādhi paññāyissatī”’ti.

Này các Tỷ-kheo, khi ấy vua Bandhumā suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, bandhumassa rañño etadahosi:

“Không thể để cho Hoàng tử Vipassī từ chối không trị vì! Không thể để cho Hoàng tử Vipassī xuất gia! Không thể để cho lời của các vị Bà-la-môn đoán tướng trở thành sự thật”.
‘mā heva kho vipassī kumāro na rajjaṃ kāresi, mā heva vipassī kumāro agārasmā anagāriyaṃ pabbaji, mā heva nemittānaṃ brāhmaṇānaṃ saccaṃ assa vacanan’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi vua Bandhuma, lại sắp đặt cho hoàng tử Vipassī đầy đủ năm món dục lạc nhiều hơn nữa, để hoàng tử Vipassī có thể trị vì, để hoàng tử Vipassī không thể xuất gia, để cho lời các vị Bà-la-môn đoán tướng không trúng sự thật.
Atha kho, bhikkhave, bandhumā rājā vipassissa kumārassa bhiyyoso mattāya pañca kāmaguṇāni upaṭṭhāpesi:‘yathā vipassī kumāro rajjaṃ kareyya, yathā vipassī kumāro na agārasmā anagāriyaṃ pabbajeyya, yathā nemittānaṃ brāhmaṇānaṃ micchā assa vacanan’ti.

Và này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassī sống tận hưởng, đầy đủ, sung túc năm món dục lạc.
Tatra sudaṃ, bhikkhave, vipassī kumāro pañcahi kāmaguṇehi samappito samaṅgībhūto paricāreti.

Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassī, sau thời gian nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, cho gọi người đánh xe: “Này khanh, hãy cho thắng các cỗ xe thù thắng, chúng ta sẽ đi đến vườn ngự uyển để xem phong cảnh”. “Thưa vâng, Hoàng tử”. Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng lời hoàng tử Vipassī, cho thắng các cỗ xe thù thắng rồi bạch hoàng tử Vipassī: “Tâu hoàng tử, các cỗ xe thù thắng đã thắng xong. Hãy làm những gì Hoàng tử xem là hợp thời”. Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ hoàng tử Vipassī leo lên cỗ xe thù thắng và cùng với các cỗ xe thù thắng khác, tiến đến vườn ngự uyển.
Atha kho, bhikkhave, vipassī kumāro bahūnaṃ vassānaṃ ...pe...

Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassī trên đường đi đến vườn ngự uyển, thấy một số đông người, mặc sắc phục khác nhau, và đang dựng một dàn hỏa táng.
Addasā kho, bhikkhave, vipassī kumāro uyyānabhūmiṃ niyyanto mahājanakāyaṃ sannipatitaṃ nānārattānañca dussānaṃ vilātaṃ kayiramānaṃ.

Thấy vậy, hoàng tử hỏi người đánh xe:
Disvā sārathiṃ āmantesi:

“Này khanh, vì sao đám đông người ấy mặc sắc phục khác nhau và đang dựng một dàn hỏa táng?”
‘kiṃ nu kho so, samma sārathi, mahājanakāyo sannipatito nānārattānañca dussānaṃ vilātaṃ kayiratī’ti?

“Tâu Hoàng tử, vì có một người vừa mới mệnh chung”
‘Eso kho, deva, kālaṅkato nāmā’ti.

“Này khanh, vậy ngươi hãy đánh xe đến gần người vừa mới mệnh chung!”
’‘Tena hi, samma sārathi, yena so kālaṅkato tena rathaṃ pesehī’ti.

“Thưa vâng, tâu Hoàng tử.” Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng theo lời hoàng tử, cho đánh xe đến người vừa mới mệnh chung.
‘Evaṃ, devā’ti kho, bhikkhave, sārathi vipassissa kumārassa paṭissutvā yena so kālaṅkato tena rathaṃ pesesi.

Này các Tỷ-kheo, khi thấy thây người chết, hoàng tử Vipassī hỏi: “Này khanh, sao người ấy được gọi là người đã chết?”
Addasā kho, bhikkhave, vipassī kumāro petaṃ kālaṅkataṃ, disvā sārathiṃ āmantesi: ‘kiṃ panāyaṃ, samma sārathi, kālaṅkato nāmā’ti?

“Tâu Hoàng tử, người ấy được gọi là người đã chết vì nay bà mẹ, ông cha, các người bà con ruột thịt khác không thấy người ấy nữa; và người ấy cũng không thấy bà mẹ, ông cha hay những người bà con ruột thịt khác!”
‘Eso kho, deva, kālaṅkato nāma. Na dāni taṃ dakkhanti mātā vā pitā vā aññe vā ñātisālohitā, sopi na dakkhissati mātaraṃ vā pitaraṃ vā aññe vā ñātisālohite’ti.

“Này khanh, vậy Ta chưa chết, rồi có bị chết không?
Kiṃ pana, samma sārathi, ahampi maraṇadhammo maraṇaṃ anatīto;

Phụ vương, Mẫu hậu hay những người bà con ruột thịt khác sẽ không thấy Ta chăng?
mampi na dakkhanti devo vā devī vā aññe vā ñātisālohitā;

và Ta sẽ không thấy Phụ vương, Mẫu hậu hay những bà con ruột thịt chăng?”
’ahampi na dakkhissāmi devaṃ vā deviṃ vā aññe vā ñātisālohite’ti?

“Tâu Hoàng tử, Hoàng tử và cả con nữa, chúng ta tuy nay chưa chết nhưng rồi sẽ cũng bị chết.
Tvañca, deva, mayañcamha sabbe maraṇadhammā maraṇaṃ anatītā;

Phụ vương, Mẫu hậu hay các người bà con ruột thịt khác sẽ không thấy Hoàng Tử.
tampi na dakkhanti devo vā devī vā aññe vā ñātisālohitā;

và Hoàng tử sẽ không thấy Phụ vương, Mẫu hậu hay các người bà con ruột thịt khác”.
’tvampi na dakkhissasi devaṃ vā deviṃ vā aññe vā ñātisālohite’ti.

“Này khanh, thôi nay thăm vườn ngự uyển như vậy vừa rồi. Hãy cho đánh xe trở về cung”.
‘Tena hi, samma sārathi, alaṃ dānajja uyyānabhūmiyā, itova antepuraṃ paccaniyyāhī’ti.

“Thưa vâng, Hoàng tử”. Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng lời hoàng tử, cho đánh xe trở về cung.
‘Evaṃ, devā’ti kho, bhikkhave, sārathi vipassissa kumārassa paṭissutvā tatova antepuraṃ paccaniyyāsi.

Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassī về trong cung, đau khổ, sầu muộn và suy nghĩ:
Tatra sudaṃ, bhikkhave, vipassī kumāro antepuraṃ gato dukkhī dummano pajjhāyati:

“Sỉ nhục thay cái gọi là sanh! Và ai sanh ra cũng phải già, cũng phải bệnh, cũng phải chết như vậy!”.
‘dhiratthu kira, bho, jāti nāma, yatra hi nāma jātassa jarā paññāyissati, byādhi paññāyissati, maraṇaṃ paññāyissatī’ti.

Này các Tỷ-kheo, khi ấy vua Bandhumā cho gọi người đánh xe và hỏi:
Atha kho, bhikkhave, bandhumā rājā sārathiṃ āmantāpetvā etadavoca:

“Này khanh, Hoàng tử có vui vẻ không, tại vườn ngự uyển? Hoàng tử có hoan hỷ không, tại vườn ngự uyển?”
‘kacci, samma sārathi, kumāro uyyānabhūmiyā abhiramittha, kacci, samma sārathi, kumāro uyyānabhūmiyā attamano ahosī’ti?

“Tâu Ðại vương, Hoàng tử không có vui vẻ tại vườn ngự uyển. Hoàng tử không có hoan hỷ tại vườn ngự uyển”.
‘Na kho, deva, kumāro uyyānabhūmiyā abhiramittha, na kho, deva, kumāro uyyānabhūmiyā attamano ahosī’ti.

“Này khanh đi đến vườn ngự uyển, Hoàng tử đã thấy gì?”
‘Kiṃ pana, samma sārathi, addasa kumāro uyyānabhūmiṃ niyyanto’ti?

“Tâu Ðại vương, Hoàng tử trong khi đang đi đến vườn ngự uyển, thấy một số đông người, mặc sắc phục khác nhau và đang dựng một dàn hỏa táng. Thấy vậy Hoàng tử hỏi con: “Này khanh, vì sao đám đông người ấy, mặc sắc phục khác nhau và đang dựng một dàn hỏa táng?”. “Tâu Hoàng tử, vì có một người mới mệnh chung”. “Này khanh, vậy ngươi hãy đánh xe lại gần người vừa mới mệnh chung”. “Thưa vâng, tâu Hoàng tử”. Con vâng theo lời Hoàng tử, cho đánh xe đến gần người vừa mới mệnh chung. Khi thấy thây chết, Hoàng tử hỏi con: “Này khanh, sao người ấy được gọi là người đã chết?”. “Tâu Hoàng tử, người ấy được gọi là người đã chết, vì nay bà mẹ, ông cha hay những bà con ruột thịt khác không thấy người ấy nữa! Và người ấy cũng không thấy bà mẹ, ông cha hay những người bà con ruột thịt khác”. “Này khanh, vậy Ta chưa chết rồi có bị chết không? Phụ vương, Mẫu hậu hay những người bà con ruột thịt khác sẽ không thấy Ta chăng? Và Ta sẽ không thấy Phụ vương, Mẫu hậu hay những người bà con ruột thịt khác chăng?”. “Tâu Hoàng tử, Hoàng tử và cả con nữa, chúng ta tuy nay chưa chết nhưng rồi cũng sẽ bị chết. Phụ vương, Mẫu hậu hay những người bà con ruột thịt khác sẽ không thấy hoàng tử, và hoàng tử sẽ không thấy Phụ vương, Mẫu hậu hay các người bà con ruột thịt khác”. “Này khanh, thôi nay thăm vườn ngự uyển như vậy vừa rồi. Hãy cho đánh xe trở về cung”. “Thưa vâng, Hoàng tử”. Con vâng theo lời hoàng tử Vipassī cho đánh xe trở về cung. Hoàng tử về trong cung đau khổ, sầu muộn và suy nghĩ: “Sỉ nhục thay cái gọi là sanh! Và ai sanh ra cũng phải già, cũng phải bệnh, cũng phải chết như vậy!”.
Addasā kho, deva, kumāro uyyānabhūmiṃ niyyanto mahājanakāyaṃ sannipatitaṃ nānārattānañca dussānaṃ vilātaṃ kayiramānaṃ.Disvā maṃ etadavoca:“kiṃ nu kho so, samma sārathi, mahājanakāyo sannipatito nānārattānañca dussānaṃ vilātaṃ kayiratī”ti?“Eso kho, deva, kālaṅkato nāmā”ti.“Tena hi, samma sārathi, yena so kālaṅkato tena rathaṃ pesehī”ti.“Evaṃ, devā”ti kho ahaṃ, deva, vipassissa kumārassa paṭissutvā yena so kālaṅkato tena rathaṃ pesesiṃ.Addasā kho, deva, kumāro petaṃ kālaṅkataṃ, disvā maṃ etadavoca:“kiṃ panāyaṃ, samma sārathi, kālaṅkato nāmā”ti?“Eso kho, deva, kālaṅkato nāma.Na dāni taṃ dakkhanti mātā vā pitā vā aññe vā ñātisālohitā, sopi na dakkhissati mātaraṃ vā pitaraṃ vā aññe vā ñātisālohite”ti.“Kiṃ pana, samma sārathi, ahampi maraṇadhammo maraṇaṃ anatīto;mampi na dakkhanti devo vā devī vā aññe vā ñātisālohitā;ahampi na dakkhissāmi devaṃ vā deviṃ vā aññe vā ñātisālohite”ti?“Tvañca, deva, mayañcamha sabbe maraṇadhammā maraṇaṃ anatītā;tampi na dakkhanti devo vā devī vā aññe vā ñātisālohitā, tvampi na dakkhissasi devaṃ vā deviṃ vā aññe vā ñātisālohite”ti.“Tena hi, samma sārathi, alaṃ dānajja uyyānabhūmiyā, itova antepuraṃ paccaniyyāhī”ti.“Evaṃ, devā”ti kho ahaṃ, deva, vipassissa kumārassa paṭissutvā tatova antepuraṃ paccaniyyāsiṃ.So kho, deva, kumāro antepuraṃ gato dukkhī dummano pajjhāyati:“dhiratthu kira, bho, jāti nāma, yatra hi nāma jātassa jarā paññāyissati, byādhi paññāyissati, maraṇaṃ paññāyissatī”’ti.

Này các Tỷ-kheo, khi ấy vua Bandhumā suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, bandhumassa rañño etadahosi:

“Không thể để cho hoàng tử Vipassī từ chối không trị vì! Không thể để cho hoàng tử Vipassī xuất gia. Không thể để cho lời các vị Bà-la-môn đoán tướng trở thành sự thật”.
mā heva kho vipassī kumāro na rajjaṃ kāresi, mā heva vipassī kumāro agārasmā anagāriyaṃ pabbaji, mā heva nemittānaṃ brāhmaṇānaṃ saccaṃ assa vacanan’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi vua Bandhumā lại sắp đặt cho hoàng tử Vipassī đầy đủ năm món dục lạc nhiều hơn nữa, để hoàng tử Vipassī có thể trị vì, để hoàng tử Vipassī không thể xuất gia, để cho lời các vị Bà-la-môn đoán tướng không đúng sự thật.
Atha kho, bhikkhave, bandhumā rājā vipassissa kumārassa bhiyyoso mattāya pañca kāmaguṇāni upaṭṭhāpesi:‘yathā vipassī kumāro rajjaṃ kareyya, yathā vipassī kumāro na agārasmā anagāriyaṃ pabbajeyya, yathā nemittānaṃ brāhmaṇānaṃ micchā assa vacanan’ti.

Và này các Tỷ-kheo, Hoàng tử Vipassī sống tận hưởng, đầy đủ, sung túc năm món dục lạc.
Tatra sudaṃ, bhikkhave, vipassī kumāro pañcahi kāmaguṇehi samappito samaṅgībhūto paricāreti.

Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassī, sau thời gian nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm cho gọi người đánh xe: “Này khanh, hãy cho thắng các cỗ xe thù thắng, chúng ta sẽ đi đến vườn ngự uyển để xem phong cảnh”. “Thưa vâng, Hoàng tử”. Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng lời hoàng tử Vipassī, cho thắng các cỗ xe thù thắng rồi bạch hoàng tử Vipassī: “Tâu Hoàng tử, các cỗ xe thù thắng đã thắng xong. Hãy làm những gì Hoàng tử xem là hợp thời”. Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ hoàng tử Vipassī leo lên cỗ xe thù thắng và cùng với các cỗ xe thù thắng khác, tiến đến vườn ngự uyển.
Atha kho, bhikkhave, vipassī kumāro bahūnaṃ vassānaṃ bahūnaṃ vassasatānaṃ bahūnaṃ vassasahassānaṃ accayena sārathiṃ āmantesi:‘yojehi, samma sārathi, bhaddāni bhaddāni yānāni, uyyānabhūmiṃ gacchāma subhūmidassanāyā’ti.‘Evaṃ, devā’ti kho, bhikkhave, sārathi vipassissa kumārassa paṭissutvā bhaddāni bhaddāni yānāni yojetvā vipassissa kumārassa paṭivedesi:‘yuttāni kho te, deva, bhaddāni bhaddāni yānāni,yassadāni kālaṃ maññasī’ti.Atha kho, bhikkhave, vipassī kumāro bhaddaṃ bhaddaṃ yānaṃ abhiruhitvā bhaddehi bhaddehi yānehi uyyānabhūmiṃ niyyāsi.

Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassī trên đường đi đến ngự uyển thấy một vị xuất gia, đầu trọc, đắp áo cà sa.
Addasā kho, bhikkhave, vipassī kumāro uyyānabhūmiṃ niyyanto purisaṃ bhaṇḍuṃ pabbajitaṃ kāsāyavasanaṃ.

Thấy vậy, hoàng tử hỏi người đánh xe:
Disvā sārathiṃ āmantesi:

“Này khanh, người này đã làm gì?”
ayaṃ pana, samma sārathi, puriso kiṅkato?

mà đầu người ấy lại khác đầu của những người khác, và áo của người ấy cũng khác áo của những người khác?”
’Sīsampissa na yathā aññesaṃ, vatthānipissa na yathā aññesan’ti?

“Tâu Hoàng tử, người ấy được gọi là người xuất gia!”
‘Eso kho, deva, pabbajito nāmā’ti.

“Này khanh, sao người ấy được gọi là người xuất gia?”
‘Kiṃ paneso, samma sārathi, pabbajito nāmā’ti?

“Tâu Hoàng tử, xuất gia nghĩa là khéo tu phạm hạnh, khéo tu tịnh hạnh, khéo hành thiện nghiệp, khéo hành công đức nghiệp, khéo giữ không hại chúng sanh, khéo có lòng từ đối với chúng sanh!”
‘Eso kho, deva, pabbajito nāma sādhu dhammacariyā sādhu samacariyā sādhu kusalakiriyā sādhu puññakiriyā sādhu avihiṃsā sādhu bhūtānukampā’ti.

“Thưa Hiền giả, lành thay hạnh xuất gia của Ngài, lành thay khéo tu phạm hạnh, khéo tu tính hạnh, khéo hành thiện nghiệp, khéo hành công đức nghiệp, khéo giữ không hại chúng sanh, khéo có lòng từ đối với chúng sanh”.
Sādhu kho so, samma sārathi, pabbajito nāma, sādhu dhammacariyā sādhu samacariyā sādhu kusalakiriyā sādhu puññakiriyā sādhu avihiṃsā sādhu bhūtānukampā.

“Này khanh, hãy đánh xe đến gần vị xuất gia”
’Tena hi, samma sārathi, yena so pabbajito tena rathaṃ pesehī’ti.

“Thưa vâng, Hoàng tử”. Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng theo lời hoàng tử Vipassī, đánh xe đến gần người xuất gia.
‘Evaṃ, devā’ti kho, bhikkhave, sārathi vipassissa kumārassa paṭissutvā yena so pabbajito tena rathaṃ pesesi.

Này các Tỷ-kheo, rồi hoàng tử Vipassī hỏi vị xuất gia:
Atha kho, bhikkhave, vipassī kumāro taṃ pabbajitaṃ etadavoca:

“Thưa Hiền giả, Ngài đã làm gì?‘
tvaṃ pana, samma, kiṅkato,

mà đầu của Ngài không giống những người khác, và áo của Ngài không giống các người khác?”
’sīsampi te na yathā aññesaṃ, vatthānipi te na yathā aññesan’ti?

“Thưa Hoàng tử, tôi là một người xuất gia!”
‘Ahaṃ kho, deva, pabbajito nāmā’ti.

“Thưa Hiền giả, thế nào gọi là người xuất gia?”
‘Kiṃ pana tvaṃ, samma, pabbajito nāmā’ti?

“Thưa Hoàng tử, tôi là người được gọi là xuất gia, vì tôi khéo tu phạm hạnh, khéo tu tịnh hạnh, khéo hành thiện nghiệp, khéo hành công đức nghiệp, khéo giữ không hại chúng sanh, khéo có lòng từ đối với chúng sanh”.
‘Ahaṃ kho, deva, pabbajito nāma, sādhu dhammacariyā sādhu samacariyā sādhu kusalakiriyā sādhu puññakiriyā sādhu avihiṃsā sādhu bhūtānukampā’ti.

“Thưa Hiền giả, lành thay hạnh xuất gia của Ngài, lành thay khéo tu phạm hạnh, khéo tu tính hạnh, khéo hành thiện nghiệp, khéo hành công đức nghiệp, khéo giữ không hại chúng sanh, khéo có lòng từ đối với chúng sanh”.
‘Sādhu kho tvaṃ, samma, pabbajito nāma sādhu dhammacariyā sādhu samacariyā sādhu kusalakiriyā sādhu puññakiriyā sādhu avihiṃsā sādhu bhūtānukampā’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi hoàng tử Vipassī bảo người đánh xe:
Atha kho, bhikkhave, vipassī kumāro sārathiṃ āmantesi:

“Này khanh, hãy lấy xe này và cho đánh xe về cung.
tena hi, samma sārathi, rathaṃ ādāya itova antepuraṃ paccaniyyāhi.

Còn Ta ở nơi đây, sẽ cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình”.
’Ahaṃ pana idheva kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajissāmī’ti.

“Thưa vâng, Hoàng tử”. Người đánh xe vâng lời hoàng tử Vipassī lấy xe và đánh xe về cung.
Evaṃ, devā’ti kho, bhikkhave, sārathi vipassissa kumārassa paṭissutvā rathaṃ ādāya tatova antepuraṃ paccaniyyāsi.

Còn hoàng tử Vipassī, chính tại chỗ ấy, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Vipassī pana kumāro tattheva kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbaji.

Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ, tại kinh đô Bandhumatī có một đại chúng 84,000 người nghe tin:
Assosi kho, bhikkhave, bandhumatiyā rājadhāniyā mahājanakāyo caturāsītipāṇasahassāni:

“Hoàng tử Vipassī đã cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình”
‘vipassī kira kumāro kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajito’ti.

Khi nghe tin, các vị ấy suy nghĩ:
Sutvāna tesaṃ etadahosi:

“Pháp luật như vậy không phải tầm thường, xuất gia như vậy không phải tầm thường, vì hoàng tử Vipassī trong pháp luật ấy đã cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình”.
na hi nūna so orako dhammavinayo, na sā orakā pabbajjā, yattha vipassī kumāro kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajito.

Nay hoàng tử Vipassī đã cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình tại sao chúng ta lại không?
’Vipassīpi nāma kumāro kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajissati, kimaṅgaṃ pana mayan’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi đại chúng 84,000 người ấy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, dưới sự lãnh đạo của Bồ-tát Vipassī.
Atha kho, so bhikkhave, mahājanakāyo caturāsītipāṇasahassāni kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā vipassiṃ bodhisattaṃ agārasmā anagāriyaṃ pabbajitaṃ anupabbajiṃsu.

Rồi Bồ-tát Vipassī cùng với đồ chúng, du hành, đi ngang qua những làng, thị xã và đô thị.
Tāya sudaṃ, bhikkhave, parisāya parivuto vipassī bodhisatto gāmanigamajanapadarājadhānīsu cārikaṃ carati.

Này các Tỷ-kheo, trong khi yên lặng tịnh cư, Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi:

“Sao Ta lại sống bị bao vây bởi đồ chúng này. Tốt hơn là Ta sống một mình, lánh xa đồ chúng này!”
‘na kho metaṃ patirūpaṃ yohaṃ ākiṇṇo viharāmi, yannūnāhaṃ eko gaṇamhā vūpakaṭṭho vihareyyan’ti.

Này các Tỷ-kheo, sau một thời gian Bồ-tát Vipassī sống một mình, lánh xa đồ chúng, 84,000 vị xuất gia này đi một ngả, Bồ-tát Vipassī đi một ngả.
Atha kho, bhikkhave, vipassī bodhisatto aparena samayena eko gaṇamhā vūpakaṭṭho vihāsi, aññeneva tāni caturāsītipabbajitasahassāni agamaṃsu, aññena maggena vipassī bodhisatto.

Này các Tỷ-kheo, trong khi yên lặng tịnh cư tại chỗ thanh vắng, Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa vāsūpagatassa rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi:

“Thế giới này thật rơi vào cảnh khổ não, phải sanh rồi già, rồi chết, rồi từ bỏ thế giới này để tái sanh thế giới khác.
‘kicchaṃ vatāyaṃ loko āpanno, jāyati ca jīyati ca mīyati ca cavati ca upapajjati ca, atha ca panimassa dukkhassa nissaraṇaṃ nappajānāti jarāmaraṇassa,

Không một ai biết một con đường giải thoát khỏi sự đau khổ này, thoát khỏi già và chết?
’kudāssu nāma imassa dukkhassa nissaraṇaṃ paññāyissati jarāmaraṇassā’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Cái gì có mặt, già chết mới có mặt? Do duyên gì, già chết sanh?”.
‘kimhi nu kho sati jarāmaraṇaṃ hoti, kiṃpaccayā jarāmaraṇan’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:

“Do sanh có mặt, nên già, chết có mặt. Do duyên sanh, già chết sanh”.
‘jātiyā kho sati jarāmaraṇaṃ hoti, jātipaccayā jarāmaraṇan’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Cái gì có mặt, sanh mới có mặt? Do duyên gì, sanh phát khởi?”
‘kimhi nu kho sati jāti hoti, kiṃpaccayā jātī’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:

“Do hữu có mặt nên sanh mới có mặt. Do duyên hữu, nên sanh phát khởi”.
‘bhave kho sati jāti hoti, bhavapaccayā jātī’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Cái gì có mặt, hữu mới có mặt? Do duyên gì, hữu phát sanh?”
‘kimhi nu kho sati bhavo hoti, kiṃpaccayā bhavo’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:

“Do thủ có mặt nên hữu mới có mặt. Do duyên thủ, hữu phát sanh”.
‘upādāne kho sati bhavo hoti, upādānapaccayā bhavo’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Cái gì có mặt thủ mới có mặt? Do duyên gì, thủ phát sanh?”
‘kimhi nu kho sati upādānaṃ hoti, kiṃpaccayā upādānan’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:

“Do ái có mặt, thủ mới phát sanh”.
‘taṇhāya kho sati upādānaṃ hoti, taṇhāpaccayā upādānan’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Cái gì có mặt, ái mới có mặt. Do duyên gì, ái phát sanh?”
‘kimhi nu kho sati taṇhā hoti, kiṃpaccayā taṇhā’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:

“Do thọ có mặt, ái mới có mặt. Do duyên thọ, ái phát sanh”.
‘vedanāya kho sati taṇhā hoti, vedanāpaccayā taṇhā’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Cái gì có mặt, thọ mới có mặt. Do duyên gì, thọ mới phát sanh?”
‘kimhi nu kho sati vedanā hoti, kiṃpaccayā vedanā’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:

“Do xúc có mặt, thọ mới có mặt. Do duyên xúc, thọ mới phát sanh”.
‘phasse kho sati vedanā hoti, phassapaccayā vedanā’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Cái gì có mặt, xúc mới có mặt. Do duyên gì xúc mới phát sanh?”
‘kimhi nu kho sati phasso hoti, kiṃpaccayā phasso’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:

“Do lục nhập có mặt, xúc mới có mặt. Do duyên lục nhập, xúc mới phát sanh “.
‘saḷāyatane kho sati phasso hoti, saḷāyatanapaccayā phasso’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Cái gì có mặt, lục nhập mới có mặt. Do duyên gì, lục nhập mới phát sanh?”
‘kimhi nu kho sati saḷāyatanaṃ hoti, kiṃpaccayā saḷāyatanan’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:

“Do danh sắc có mặt, lục nhập mới có mặt. Do duyên danh sắc, lục nhập mới phát sanh”.
‘nāmarūpe kho sati saḷāyatanaṃ hoti, nāmarūpapaccayā saḷāyatanan’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Cái gì có mặt, danh sắc mới có mặt? Do duyên gì, danh sắc mới phát sanh?”
‘kimhi nu kho sati nāmarūpaṃ hoti, kiṃpaccayā nāmarūpan’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:

“Do thức có mặt, danh sắc có mới có mặt. Do duyên thức, danh sắc mới phát sanh”.
‘viññāṇe kho sati nāmarūpaṃ hoti, viññāṇapaccayā nāmarūpan’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Cái gì có mặt, thức mới có mặt. Do duyên gì, thức mới phát sanh?”
‘kimhi nu kho sati viññāṇaṃ hoti, kiṃpaccayā viññāṇan’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:

“Do danh sắc có mặt, thức mới có mặt. Do duyên danh sắc, thức mới phát sanh”.
‘nāmarūpe kho sati viññāṇaṃ hoti, nāmarūpapaccayā viññāṇan’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ như sau:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Thức này xoay trở lui lại, từ nơi danh sắc, không vượt khỏi danh sắc.
‘paccudāvattati kho idaṃ viññāṇaṃ nāmarūpamhā, nāparaṃ gacchati.

Chỉ như thế này, con người được sanh ra hay trở thành già, hay bị chết, hay từ biệt cõi này, hay sanh lại ở cõi khác, nghĩa là:
Ettāvatā jāyetha vā jiyyetha vā miyyetha vā cavetha vā upapajjetha vā, yadidaṃ

do duyên danh sắc, thức sanh; do duyên thức, danh sắc sanh; do duyên danh sắc, lục nhập sanh; do duyên lục nhập, xúc sanh; do duyên xúc, thọ sanh; do duyên thọ, ái sanh; do duyên ái, thủ sanh; do duyên thủ, hữu sanh; do duyên hữu, sanh sanh; do duyên sanh, lão, tử, sầu bi, khổ ưu não sanh.
nāmarūpapaccayā viññāṇaṃ, viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ, nāmarūpapaccayā saḷāyatanaṃ, saḷāyatanapaccayā phasso, phassapaccayā vedanā, vedanāpaccayā taṇhā, taṇhāpaccayā upādānaṃ, upādānapaccayā bhavo, bhavapaccayā jāti, jātipaccayā jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā sambhavanti.

Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này”.
’Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti’.

“Tập khởi, tập khởi”. Này các Tỷ-kheo, từ nơi Bồ-tát Vipassī, khởi sanh pháp nhãn từ trước chưa từng được nghe, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, ánh sáng sanh.
Samudayo samudayo’ti kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Do cái gì không có mặt, già chết không có mặt? Cái gì diệt, già chết diệt?”
‘kimhi nu kho asati jarāmaraṇaṃ na hoti, kissa nirodhā jarāmaraṇanirodho’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:

“Do sanh không có mặt, già chết không có mặt, do sanh diệt, già chết diệt”.
‘jātiyā kho asati jarāmaraṇaṃ na hoti, jātinirodhā jarāmaraṇanirodho’ti

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Do cái gì không có mặt, sanh không có mặt? Cái gì diệt, sanh diệt!
‘kimhi nu kho asati jāti na hoti, kissa nirodhā jātinirodho’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:

“Do hữu không có mặt, sanh không có mặt, do hữu diệt, sanh diệt”.
‘bhave kho asati jāti na hoti, bhavanirodhā jātinirodho’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Do cái gì không có mặt, hữu không có mặt? Cái gì diệt, hữu diệt?”
‘kimhi nu kho asati bhavo na hoti, kissa nirodhā bhavanirodho’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:

“Do thủ không có mặt, hữu không có mặt, do thủ diệt, hữu diệt”.
‘upādāne kho asati bhavo na hoti, upādānanirodhā bhavanirodho’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Do cái gì không có mặt, thủ không có mặt? Cái gì diệt, thủ diệt?”
‘kimhi nu kho asati upādānaṃ na hoti, kissa nirodhā upādānanirodho’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:

“Do ái không có mặt, thủ không có mặt, do ái diệt, thủ diệt”.
‘taṇhāya kho asati upādānaṃ na hoti, taṇhānirodhā upādānanirodho’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Do cái gì không có mặt, ái không có mặt? Cái gì diệt, ái diệt?”
‘kimhi nu kho asati taṇhā na hoti, kissa nirodhā taṇhānirodho’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:

“Do thọ không có mặt, ái không có mặt, do thọ diệt, ái diệt”.
‘vedanāya kho asati taṇhā na hoti, vedanānirodhā taṇhānirodho’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Do cái gì không có mặt, thọ không có mặt? Cái gì diệt, thọ diệt?”
‘kimhi nu kho asati vedanā na hoti, kissa nirodhā vedanānirodho’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:

“Do xúc không có mặt, thọ không có mặt, do xúc diệt, thọ diệt”.
‘phasse kho asati vedanā na hoti, phassanirodhā vedanānirodho’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Do cái gì không có mặt xúc không có mặt? Cái gì diệt, xúc diệt?”
‘kimhi nu kho asati phasso na hoti, kissa nirodhā phassanirodho’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:

“Do lục nhập không có mặt, xúc không có mặt, do lục nhập diệt, xúc diệt”.
‘saḷāyatane kho asati phasso na hoti, saḷāyatananirodhā phassanirodho’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Do cái gì có mặt, lục nhập không có mặt? Cái gì diệt, lục nhập diệt”.
‘kimhi nu kho asati saḷāyatanaṃ na hoti, kissa nirodhā saḷāyatananirodho’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:

“Do danh sắc không có mặt, lục nhập không có mặt, do danh sắc diệt, lục nhập diệt”.
‘nāmarūpe kho asati saḷāyatanaṃ na hoti, nāmarūpanirodhā saḷāyatananirodho’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Do cái gì không có mặt, danh sắc không có mặt? Cái gì diệt danh sắc diệt?”
‘kimhi nu kho asati nāmarūpaṃ na hoti, kissa nirodhā nāmarūpanirodho’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:

“Do thức không có mặt, danh sắc không có mặt, do thức diệt, danh sắc diệt”.
‘viññāṇe kho asati nāmarūpaṃ na hoti, viññāṇanirodhā nāmarūpanirodho’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Cái gì không có mặt, thức không có mặt? Do cái gì diệt, thức diệt?”
‘kimhi nu kho asati viññāṇaṃ na hoti, kissa nirodhā viññāṇanirodho’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:

“Do danh sắc không có mặt, thức không có mặt, do danh sắc diệt, thức diệt”.
‘nāmarūpe kho asati viññāṇaṃ na hoti, nāmarūpanirodhā viññāṇanirodho’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa etadahosi:

“Ôi, Ta đã chứng được con đường đưa đến Bồ-đề, nhờ pháp tu quán. Nghĩa là
adhigato kho myāyaṃ maggo sambodhāya yadidaṃ

Do danh sắc diệt, thức diệt; do thức diệt, danh sắc diệt; do danh sắc diệt, lục nhập diệt; do lục nhập diệt, xúc diệt; do xúc diệt, thọ diệt, do thọ diệt, ái diệt; do ái diệt, thủ diệt; do thủ diệt, hữu diệt; do hữu diệt, sanh diệt; do sanh diệt, già, chết, ưu, bi, khổ, sầu, não diệt.
nāmarūpanirodhā viññāṇanirodho, viññāṇanirodhā nāmarūpanirodho, nāmarūpanirodhā saḷāyatananirodho, saḷāyatananirodhā phassanirodho, phassanirodhā vedanānirodho, vedanānirodhā taṇhānirodho, taṇhānirodhā upādānanirodho, upādānanirodhā bhavanirodho, bhavanirodhā jātinirodho, jātinirodhā jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā nirujjhanti.

Như vậy, toàn bộ khổ uẩn diệt”.
’Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hoti’.

“Diệt, diệt”. Này các Tỷ-kheo, từ nơi Bồ-tát Vipassī, khởi hành pháp nhãn từ trước chưa từng được nghe, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, ánh sáng sanh.
Nirodho nirodho’ti kho, bhikkhave, vipassissa bodhisattassa pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassī, sau một thời gian sống quán sự sanh diệt trong năm uẩn:
Atha kho, bhikkhave, vipassī bodhisatto aparena samayena pañcasu upādānakkhandhesu udayabbayānupassī vihāsi:

“Ðây là sắc, đây là sắc tập khởi, đây là sắc diệt.‘
iti rūpaṃ, iti rūpassa samudayo, iti rūpassa atthaṅgamo;

Ðây là thọ, đây là thọ tập khởi, đây là thọ diệt.
iti vedanā, iti vedanāya samudayo, iti vedanāya atthaṅgamo;

Ðây là tưởng, đây là tưởng tập khởi, đây là tưởng diệt.
iti saññā, iti saññāya samudayo, iti saññāya atthaṅgamo;

Ðây là hành, đây là hành tập khởi, đây là hành diệt.
iti saṅkhārā, iti saṅkhārānaṃ samudayo, iti saṅkhārānaṃ atthaṅgamo;

Ðây là thức, đây là thức tập khởi, đây là thức diệt”.
’iti viññāṇaṃ, iti viññāṇassa samudayo, iti viññāṇassa atthaṅgamo’ti,

Và đối với Ngài, sau khi sống quán pháp sanh diệt trong năm thủ uẩn, chẳng bao lâu các lậu hoặc được tiêu trừ và Ngài được giải thoát.
tassa pañcasu upādānakkhandhesu udayabbayānupassino viharato na cirasseva anupādāya āsavehi cittaṃ vimuccīti.

Tụng phẩm III

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác liền suy nghĩ: “Nay Ta hãy thuyết pháp”.
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa etadahosi: ‘yannūnāhaṃ dhammaṃ deseyyan’ti.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa etadahosi:

“Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục.
adhigato kho myāyaṃ dhammo gambhīro duddaso duranubodho santo paṇīto atakkāvacaro nipuṇo paṇḍitavedanīyo. Ālayarāmā kho panāyaṃ pajā ālayaratā ālayasammuditā.

Ðối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý “Y tánh duyên khởi pháp”
Ālayarāmāya kho pana pajāya ālayaratāya ālayasammuditāya duddasaṃ idaṃ ṭhānaṃ yadidaṃ “idappaccayatā paṭicca samuppādo”.

Thật khó mà thấy được định lý tất cả hành là tịch tịnh, tất cả sanh y được trừ bỏ, ái được đoạn tận, ly dục, ái diệt, Niết-bàn.
Idampi kho ṭhānaṃ duddasaṃ yadidaṃ sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhākkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ.

Nếu nay Ta thuyết pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ não cho Ta!”
’Ahañceva kho pana dhammaṃ deseyyaṃ, pare ca me na ājāneyyuṃ; so mamassa kilamatho, sā mamassa vihesā’ti.

Này các Tỷ-kheo, với Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, những bài kệ bất khả tư nghì, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên:
Apissu, bhikkhave, vipassiṃ bhagavantaṃ arahantaṃ sammāsambuddhaṃ imā anacchariyā gāthāyo paṭibhaṃsu pubbe assutapubbā:

Sao nay Ta lại nói lên chánh pháp, mà Ta đã chứng ngộ rất khó khăn?
Kicchena me adhigataṃ, halaṃ dāni pakāsituṃ;

Pháp này khó mà chứng ngộ, với những ai bị tham sân chi phối.
Rāgadosaparetehi, nāyaṃ dhammo susambudho.

Những ai bị ái nhiễm và vô minh bao phủ, rất khó thấy pháp này.
Paṭisotagāmiṃ nipuṇaṃ, gambhīraṃ duddasaṃ aṇuṃ;

Một pháp đi ngược dòng, vi diệu, thâm sâu, khó thấy, vi tế.
Rāgarattā na dakkhanti, ’tamokhandhena āvuṭā’ti.

Này các Tỷ-kheo, với những lời như vậy, suy tư trên vấn đề tâm của Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, hướng về vô vi, thụ động, không muốn thuyết pháp.
Itiha, bhikkhave, vipassissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa paṭisañcikkhato appossukkatāya cittaṃ nami, no dhammadesanāya.

Khi bấy giờ, một trong các vị Ðại Phạm thiên, khi biết được tư tưởng của Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, nhờ tư tưởng của mình, liền suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, aññatarassa mahābrahmuno vipassissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa cetasā cetoparivitakkamaññāya etadahosi:

“Than ôi, thế giới sẽ bị tiêu diệt, thế giới sẽ bị hoại vong, nếu tâm của Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, hướng về vô vi, thụ động, không muốn thuyết pháp!”
‘nassati vata bho loko, vinassati vata bho loko, yatra hi nāma vipassissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa appossukkatāya cittaṃ namati, no dhammadesanāyā’ti.

Này các Tỷ-kheo, vị Ðại Phạm thiên ấy, như một nhà lực sĩ duỗi thẳng cánh tay đã co lại, hay co lại cánh tay duỗi thẳng, cũng vậy vị ấy biến mất từ thế giới Phạm thiên và hiện ra trước mặt Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
Atha kho so, bhikkhave, mahābrahmā seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya; evameva—brahmaloke antarahito vipassissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa purato pāturahosi.

Này các Tỷ-kheo, rồi vị Ðại Phạm thiên đắp thượng y trên một bên vai, quỳ đầu gối bên phải trên mặt đất, chắp tay hướng về Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác và bạch rằng:
Atha kho so, bhikkhave, mahābrahmā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā dakkhiṇaṃ jāṇumaṇḍalaṃ pathaviyaṃ nihantvā yena vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho tenañjaliṃ paṇāmetvā vipassiṃ bhagavantaṃ arahantaṃ sammāsambuddhaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, hãy thuyết pháp! Bạch Thiện Thệ, hãy thuyết pháp!
desetu, bhante, bhagavā dhammaṃ, desetu sugato dhammaṃ,

Có những chúng sanh ít bị bụi trần che phủ sẽ bị nguy hại nếu không được nghe chánh pháp.
santi sattā apparajakkhajātikā; assavanatā dhammassa parihāyanti,

Nếu được nghe, những vị này có thể thâm hiểu chánh pháp”.
’bhavissanti dhammassa aññātāro’ti.

Này các Tỷ-kheo, được nghe nói vậy, Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nói với vị Ðại Phạm thiên:
Evaṃ vutte, bhikkhave, vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho taṃ mahābrahmānaṃ etadavoca:

“Này Phạm thiên, Ta đã suy nghĩ như sau: “Nay Ta hãy thuyết pháp”.
mayhampi kho, brahme, etadahosi: “yannūnāhaṃ dhammaṃ deseyyan”ti.

“Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ có người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Ðối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý y tánh duyên khởi pháp; thật khó mà thấy được định lý tất cả hành là tịch tịnh, tất cả sanh y được trừ bỏ, ái được đoạn tận, ly dục, ái diệt, Niết-bàn.
Tassa mayhaṃ, brahme, etadahosi:“adhigato kho myāyaṃ dhammo gambhīro duddaso duranubodho santo paṇīto atakkāvacaro nipuṇo paṇḍitavedanīyo. Ālayarāmā kho panāyaṃ pajā ālayaratā ālayasammuditā. Ālayarāmāya kho pana pajāya ālayaratāya ālayasammuditāya duddasaṃ idaṃ ṭhānaṃ yadidaṃ idappaccayatāpaṭiccasamuppādo. Idampi kho ṭhānaṃ duddasaṃ yadidaṃ sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhākkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ.“

Nếu nay Ta thuyết pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật mệt mỏi cho Ta, thời như vậy thật khổ não cho Ta”. Này Phạm thiên, khi ấy những bài kệ bất khả tư nghì, từ trước chưa từng nghe khởi lên nơi Ta: Sao nay Ta lại nói lên chánh pháp mà Ta đã chứng ngộ rất khó khăn? Pháp này khó mà chứng ngộ với những ai bị tham sân chi phối. Những ai bị ái nhiễm và vô minh bao phủ rất khó mà thấy được pháp này. Một pháp đi ngược dòng, vi diệu, thâm sâu, khó thấy, vi tế.
”Ahañceva kho pana dhammaṃ deseyyaṃ, pare ca me na ājāneyyuṃ; so mamassa kilamatho, sā mamassa vihesā”ti.Apissu maṃ, brahme, imā anacchariyā gāthāyo paṭibhaṃsu pubbe assutapubbā: “Kicchena me adhigataṃ,halaṃ dāni pakāsituṃ; Rāgadosaparetehi,nāyaṃ dhammo susambudho. Paṭisotagāmiṃ nipuṇaṃ,gambhīraṃ duddasaṃ aṇuṃ; Rāgarattā na dakkhanti,tamokhandhena āvuṭā”ti.

Này Phạm thiên, với những lời như vậy, suy tư trên vấn đề, tâm của Ta hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết pháp.
’Itiha me, brahme, paṭisañcikkhato appossukkatāya cittaṃ nami, no dhammadesanāyā’ti.

Này các Tỷ-kheo, lần thứ hai vị Ðại Phạm thiên ấy...(như trên)...
Dutiyampi kho, bhikkhave, so mahābrahmā ...pe...

Này các Tỷ-kheo, lần thứ ba, vị Ðại Phạm thiên ấy bạch Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác: “Bạch Thế Tôn, hãy thuyết pháp! Bạch Thiên Thệ, hãy thuyết pháp! Có những chúng sanh ít bị bụi trần che phủ sẽ bị nguy hại nếu không được nghe chánh pháp, những vị này có thể thâm hiểu chánh pháp!”
tatiyampi kho, bhikkhave, so mahābrahmā vipassiṃ bhagavantaṃ arahantaṃ sammāsambuddhaṃ etadavoca:‘desetu, bhante, bhagavā dhammaṃ, desetu sugato dhammaṃ, santi sattā apparajakkhajātikā, assavanatā dhammassa parihāyanti, bhavissanti dhammassa aññātāro’ti.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác biết được lời khuyên thỉnh của vị Phạm Thiên, vì lòng từ bi đối với chúng sanh, nhìn đời với Phật nhãn.
Atha kho, bhikkhave, vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho brahmuno ca ajjhesanaṃ viditvā sattesu ca kāruññataṃ paṭicca buddhacakkhunā lokaṃ volokesi.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nhìn đời với Phật nhãn, thấy có hạng chúng sanh nhiễm ít bụi đời, nhiễm nhiều bụi đời, có hạng lợi căn độn căn, có hạng tánh thuận tánh nghịch, có hạng dễ dạy khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm của những hành động lỗi lầm.
Addasā kho, bhikkhave, vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho buddhacakkhunā lokaṃ volokento satte apparajakkhe mahārajakkhe tikkhindriye mudindriye svākāre dvākāre suviññāpaye duviññāpaye appekacce paralokavajjabhayadassāvine viharante, appekacce na paralokavajjabhayadassāvine viharante.

Như trong hồ sen xanh, sen hồng hay sen trắng, có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vượt lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước; có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước lớn lên dưới nước, sống vươn lên tới mặt nước, có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước lớn lên dưới nước vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước làm đẫm ướt.
Seyyathāpi nāma uppaliniyaṃ vā paduminiyaṃ vā puṇḍarīkiniyaṃ vā appekaccāni uppalāni vā padumāni vā puṇḍarīkāni vā udake jātāni udake saṃvaḍḍhāni udakānuggatāni anto nimuggaposīni. Appekaccāni uppalāni vā padumāni vā puṇḍarīkāni vā udake jātāni udake saṃvaḍḍhāni samodakaṃ ṭhitāni. Appekaccāni uppalāni vā padumāni vā puṇḍarīkāni vā udake jātāni udake saṃvaḍḍhāni udakā accuggamma ṭhitāni anupalittāni udakena.

Cũng vậy này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, nhìn quanh thế giới với Phật nhãn. Ngài thấy có hạng chúng sanh nhiễm ít bụi đời, nhiễm nhiều bụi đời, có hạng lợi căn độn căn, có hạng tánh thuận tánh nghịch, có hạng dễ dạy khó dạy, một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm của những hành động lỗi lầm.
Evameva kho, bhikkhave, vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho buddhacakkhunā lokaṃ volokento addasa satte apparajakkhe mahārajakkhe tikkhindriye mudindriye svākāre dvākāre suviññāpaye duviññāpaye appekacce paralokavajjabhayadassāvine viharante, appekacce na paralokavajjabhayadassāvine viharante.

Rồi vị Ðại Phạm thiên, với tâm mình biết được tâm tư của Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, liền nói với Ngài, bài kệ sau đây:
Atha kho so, bhikkhave, mahābrahmā vipassissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa cetasā cetoparivitakkamaññāya vipassiṃ bhagavantaṃ arahantaṃ sammāsambuddhaṃ gāthāhi ajjhabhāsi

Như con người đứng trên đỉnh núi
Sele yathā pabbatamuddhaniṭṭhito,

Nhìn quanh dân chúng phía dưới.
Yathāpi passe janataṃ samantato;

Cũng vậy Ngài Sumedha lên lầu chánh pháp,
Tathūpamaṃ dhammamayaṃ sumedha,

Bậc biến nhãn, thoát ly sầu muộn.
Pāsādamāruyha samantacakkhu;

Nhìn xuống quần chúng âu lo
Sokāvatiṇṇaṃ janatamapetasoko,

Sầu muộn bị sanh già áp bức.
Avekkhassu jātijarābhibhūtaṃ.

Hãy đứng lên, bậc anh hùng, bậc chiến thắng ở chiến trường!
Uṭṭhehi vīra vijitasaṅgāma,

Vị trưởng đoàn lữ khách, đấng thoát ly mọi nợ nần!
Satthavāha aṇaṇa vicara loke;

Thế Tôn hãy đi khắp thế giới hoằng dương chánh pháp.
Desassu bhagavā dhammaṃ,

Có người nhờ được nghe, sẽ thâm hiểu diệu nghĩa!
Aññātāro bhavissantī’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác trả lời vị Ðại Phạm thiên với bài kệ sau đây:
Atha kho, bhikkhave, vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho taṃ mahābrahmānaṃ gāthāya ajjhabhāsi:

Cửa bất diệt đã được mở rộng,
Hỡi những ai được nghe, hãy từ bỏ tà kiến của mình.

Apārutā tesaṃ amatassa dvārā,
Ye sotavanto pamuñcantu saddhaṃ;

Vì nghĩ đến mệt mỏi hoài công, này Phạm Thiên. Ta không muốn giảng Chánh pháp vi diệu cho loài người!
Vihiṃsasaññī paguṇaṃ na bhāsiṃ.’Dhammaṃ paṇītaṃ manujesu brahme’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi vị Ðại Phạm thiên với ý nghĩ: “Ta đã là người mở đường cho Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuyết pháp”, rồi đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài và biến mất tại chỗ.
Atha kho so, bhikkhave, mahābrahmā: ‘katāvakāso khomhi vipassinā bhagavatā arahatā sammāsambuddhena dhammadesanāyā’ti vipassiṃ bhagavantaṃ arahantaṃ sammāsambuddhaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tattheva antaradhāyi.

Này các Tỷ-kheo, rồi Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa etadahosi:

“Ta thuyết pháp cho ai trước tiên, ai sẽ mau hiểu chánh pháp này?”
kassa nu kho ahaṃ paṭhamaṃ dhammaṃ deseyyaṃ, ’ko imaṃ dhammaṃ khippameva ājānissatī’ti?

Này các Tỷ-kheo, rồi Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa etadahosi:

‘”Nay vương tử Khanda (Kiển-trà) và con vương sư Tissa (Ðề-xá) trú ở kinh đô Bandhumatī (Bàn-đầu-bà-đề) là bậc trí thức đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống ít nhiễm ô bởi bụi đời.
ayaṃ kho khaṇḍo ca rājaputto tisso ca purohitaputto bandhumatiyā rājadhāniyā paṭivasanti paṇḍitā viyattā medhāvino dīgharattaṃ apparajakkhajātikā.

Nay ta hãy thuyết pháp cho vương tử Khanda và con vương sư Tissa trước tiên, hai vị này sẽ sớm thâm hiểu chánh pháp này”.
’Yannūnāhaṃ khaṇḍassa ca rājaputtassa, tissassa ca purohitaputtassa paṭhamaṃ dhammaṃ deseyyaṃ, te imaṃ dhammaṃ khippameva ājānissantī’ti.

Rồi Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác như một nhà lực sĩ duỗi thẳng cánh tay đã co lại, hay co lại cánh tay duỗi thẳng, biến mất từ cây Bồ đề, hiện ra tại vườn Lộc Uyển Khenma, kinh đô Bhadhumatī.
Atha kho, bhikkhave, vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya; evameva—bodhirukkhamūle antarahito bandhumatiyā rājadhāniyā kheme migadāye pāturahosi.

Này các Tỷ-kheo, rồi Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác gọi người giữ vườn:
Atha kho, bhikkhave, vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho dāyapālaṃ āmantesi:

“Này bạn, hãy vào kinh đô Bandhumatī, nhắn với vương tử Khanda và con vương sư Tissa rằng:
ehi tvaṃ, samma dāyapāla, bandhumatiṃ rājadhāniṃ pavisitvā khaṇḍañca rājaputtaṃ tissañca purohitaputtaṃ evaṃ vadehi—

Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã đến kinh đô Bandhumatī, hiện trú ở Lộc Uyển Khema và muốn gặp hai vị!”
vipassī, bhante, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho bandhumatiṃ rājadhāniṃ anuppatto kheme migadāye viharati, so tumhākaṃ dassanakāmo’ti.

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Này các Tỷ-kheo, người giữ vườn vâng theo lời dạy của Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vào kinh đô Bandhumatī và thưa với vương tử Khanda và con vương sư Tissa: “Thưa quý vị, Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã đến kinh đô Bandhumatī và hiện ở Lộc Uyển Khema. Ngài muốn gặp quý vị!”
Evaṃ, bhante’ti kho, bhikkhave, dāyapālo vipassissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa paṭissutvā bandhumatiṃ rājadhāniṃ pavisitvā khaṇḍañca rājaputtaṃ tissañca purohitaputtaṃ etadavoca:‘vipassī, bhante, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho bandhumatiṃ rājadhāniṃ anuppatto kheme migadāye viharati; so tumhākaṃ dassanakāmo’ti.

Này các Tỷ-kheo, Vương tử Khanda và con vương sư Tissa cho thắng những cỗ xe thù thắng, tự mình leo lên một cỗ xe thù thắng rồi cùng với các cỗ xe thù thắng khác, cho xe ra khỏi kinh thành Bandhumatī, đi đến Lộc Uyển Khema.
Atha kho, bhikkhave, khaṇḍo ca rājaputto tisso ca purohitaputto bhaddāni bhaddāni yānāni yojāpetvā bhaddaṃ bhaddaṃ yānaṃ abhiruhitvā bhaddehi bhaddehi yānehi bandhumatiyā rājadhāniyā niyyiṃsu. Yena khemo migadāyo tena pāyiṃsu.

Đi xe cho đến chỗ còn đi xe được, rồi xuống xe đi bộ đến trước Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Khi đến nơi, hai vị này đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên.
Yāvatikā yānassa bhūmi, yānena gantvā yānā paccorohitvā pattikāva yena vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho tenupasaṅkamiṃsu. upasaṅkamitvā vipassiṃ bhagavantaṃ arahantaṃ sammāsambuddhaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.

Rồi Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuận thứ thuyết pháp: thuyết về bố thí, thuyết về trì giới, thuyết về các cõi trời, trình bày sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô của dục vọng, và sự lợi ích của xuất ly.
Tesaṃ vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho anupubbiṃ kathaṃ kathesi, seyyathidaṃ—dānakathaṃ sīlakathaṃ saggakathaṃ kāmānaṃ ādīnavaṃ okāraṃ saṅkilesaṃ nekkhamme ānisaṃsaṃ pakāsesi.

Khi Thế Tôn biết được tâm trí của hai vị này đã thuần thục, nhu thuận, thoát ly triền cái, cao thượng và an tịnh, Ngài bèn thuyết pháp thoại mà được chư Phật đề cao, tức là: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo.
Yadā te bhagavā aññāsi kallacitte muducitte vinīvaraṇacitte udaggacitte pasannacitte, atha yā buddhānaṃ sāmukkaṃsikā dhammadesanā, taṃ pakāsesi—dukkhaṃ samudayaṃ nirodhaṃ maggaṃ.

Cũng như tấm vải thuần tịnh không có tỳ vết, rất dễ thấm màu nhuộm,
Seyyathāpi nāma suddhaṃ vatthaṃ apagatakāḷakaṃ sammadeva rajanaṃ paṭiggaṇheyya;

cũng vậy, vương tử Khanda và con vương sư Tissa, chính tại chỗ ngồi này chứng được Pháp nhãn xa trần ly cấu:
evameva khaṇḍassa ca rājaputtassa tissassa ca purohitaputtassa tasmiṃyeva āsane virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi:

“Phàm pháp gì đã sanh rồi cũng phải diệt”.
‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman’ti.

Hai vị này đã thấy pháp, chứng pháp, ngộ pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ tiêu trừ, do dự, diệt tận, chứng được tự tín, không y cứ người khác đối với đạo pháp của đức Bổn Sư, liền bạch Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác:
Te diṭṭhadhammā pattadhammā viditadhammā pariyogāḷhadhammā tiṇṇavicikicchā vigatakathaṅkathā vesārajjappattā aparappaccayā satthusāsane vipassiṃ bhagavantaṃ arahantaṃ sammāsambuddhaṃ etadavocuṃ:

“Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!
abhikkantaṃ, bhante, abhikkantaṃ, bhante.

Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích.
Seyyathāpi, bhante, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya: “cakkhumanto rūpāni dakkhantī”ti; evamevaṃ bhagavatā anekapariyāyena dhammo pakāsito.

Bạch Thế Tôn, nay chúng con quy y Thế Tôn và quy y Pháp.
Ete mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāma dhammañca.

Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn cho chúng con được xuất gia với Thế Tôn, mong Thế Tôn cho chúng con được thọ đại giới”.
Labheyyāma mayaṃ, bhante, bhagavato santike pabbajjaṃ, labheyyāma upasampadan’ti.

Này các Tỷ-kheo, vương tử Khanda và con vương sư Tissa được xuất gia với Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, được thọ đại giới.
Alatthuṃ kho, bhikkhave, khaṇḍo ca rājaputto, tisso ca purohitaputto vipassissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa santike pabbajjaṃ alatthuṃ upasampadaṃ.

Rồi Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy hai vị này, khuyến khích làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với pháp thoại; nêu rõ sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô của các pháp hữu vi và sự lợi ích của Niết-bàn.
Te vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṃsesi; saṅkhārānaṃ ādīnavaṃ okāraṃ saṅkilesaṃ nibbāne ānisaṃsaṃ pakāsesi.

Và hai vị này nhờ Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy, khuyến khích, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với pháp thoại, không bao lâu tâm trí không còn chấp thủ, được giải thoát khỏi các lậu hoặc.
Tesaṃ vipassinā bhagavatā arahatā sammāsambuddhena dhammiyā kathāya sandassiyamānānaṃ samādapiyamānānaṃ samuttejiyamānānaṃ sampahaṃsiyamānānaṃ nacirasseva anupādāya āsavehi cittāni vimucciṃsu.

Này các Tỷ-kheo, trong khi kinh thành Bandhumatī có đại chúng khoảng 84000 vị được nghe:
Assosi kho, bhikkhave, bandhumatiyā rājadhāniyā mahājanakāyo caturāsītipāṇasahassāni:

“Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã đến kinh thành Bandhumatī và ở tại Lộc Uyển Khema.
‘vipassī kira bhagavā arahaṃ sammāsambuddho bandhumatiṃ rājadhāniṃ anuppatto kheme migadāye viharati.

Vương tử Khanda và con vương sư Tissa đã cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình với Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác”.
Khaṇḍo ca kira rājaputto tisso ca purohitaputto vipassissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa santike kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitā’ti.

Khi nghe vậy, các vị này tự nghĩ:
Sutvāna nesaṃ etadahosi:

“Chắc chắn, pháp luật này không thể tầm thường, sự xuất gia này không thể tầm thường, vì vương tử Khanda và con vương sư Tissa đã cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
na hi nūna so orako dhammavinayo, na sā orakā pabbajjā, yattha khaṇḍo ca rājaputto tisso ca purohitaputto kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitā.

Vương tử Khanda và con vương sư Tissa đã cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình với Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Tại sao chúng ta lại không làm vậy?”
’Khaṇḍo ca rājaputto tisso ca purohitaputto kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajissanti, kimaṅgaṃ pana mayan’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi đại chúng ấy gồm khoảng 84000 vị đi ra khỏi kinh thành Bandhumatì đến Lộc Uyển Khema, chỗ Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ở. Khi đến nơi, các vị này đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên.
Atha kho so, bhikkhave, mahājanakāyo caturāsītipāṇasahassāni bandhumatiyā rājadhāniyā nikkhamitvā yena khemo migadāyo yena vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā vipassiṃ bhagavantaṃ arahantaṃ sammāsambuddhaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.

Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuận thứ thuyết pháp.
Tesaṃ vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho anupubbiṃ kathaṃ kathesi.

Thuyết về bố thí, thuyết về trì giới, thuyết về các cõi trời, trình bày sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô của dục vọng và sự lợi ích của xuất ly.
Seyyathidaṃ—dānakathaṃ sīlakathaṃ saggakathaṃ kāmānaṃ ādīnavaṃ okāraṃ saṅkilesaṃ nekkhamme ānisaṃsaṃ pakāsesi.

Khi Thế Tôn biết được tâm trí của các vị này đã thuần thục, nhu thuận, thoát ly triền cái, cao thượng và an tịnh, Ngài bèn thuyết pháp thoại mà chư Phật đã đề cao, tức là —Khổ, Tập, Diệt, Ðạo.
Yadā te bhagavā aññāsi kallacitte muducitte vinīvaraṇacitte udaggacitte pasannacitte, atha yā buddhānaṃ sāmukkaṃsikā dhammadesanā, taṃ pakāsesi dukkhaṃ samudayaṃ nirodhaṃ maggaṃ.

Cũng như tấm vải thuần tịnh, không có tỳ vết rất dễ thấm màu nhuộm; cũng vậy 84000 vị này, chính tại chỗ ngồi này, chứng được pháp nhãn xa trần ly cấu:
Seyyathāpi nāma suddhaṃ vatthaṃ apagatakāḷakaṃ sammadeva rajanaṃ paṭiggaṇheyya; evameva tesaṃ caturāsītipāṇasahassānaṃ tasmiṃyeva āsane virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi:

“Phàm pháp gì đã sanh rồi cũng phải diệt”.
‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman’ti.

Những vị này đã thấy pháp, chứng pháp, ngộ pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ tiêu trừ, do dự diệt tận, chứng được tự tín, không y cứ người khác đối với đạo pháp của đức Bổn Sư, liền bạch Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác:
Te diṭṭhadhammā pattadhammā viditadhammā pariyogāḷhadhammā tiṇṇavicikicchā vigatakathaṅkathā vesārajjappattā aparappaccayā satthusāsane vipassiṃ bhagavantaṃ arahantaṃ sammāsambuddhaṃ etadavocuṃ:

“Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!
‘abhikkantaṃ, bhante, abhikkantaṃ, bhante.

Như người dựng đứng lại, những gì bị quăng xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, nay chúng con quy y Thế Tôn và quy y Pháp. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn cho chúng con được xuất gia với Thế Tôn, mong Thế Tôn cho chúng con được thọ đại giới!”.
Seyyathāpi, bhante, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya: “cakkhumanto rūpāni dakkhantī”ti; evamevaṃ bhagavatā anekapariyāyena dhammo pakāsito.Ete mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāma dhammañca bhikkhusaṅghañca.Labheyyāma mayaṃ, bhante, bhagavato santike pabbajjaṃ labheyyāma upasampadan’ti.

Này các Tỷ-kheo, 84000 vị này được xuất gia với Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, được thọ đại giới. Rồi Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy những vị này, khuyến khích, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với pháp thoại, nêu rõ sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô của các pháp hữu vi và sự lợi ích của Niết Bàn.
Alatthuṃ kho, bhikkhave, tāni caturāsītipāṇasahassāni vipassissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa santike pabbajjaṃ, alatthuṃ upasampadaṃ.Te vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṃsesi;saṅkhārānaṃ ādīnavaṃ okāraṃ saṅkilesaṃ nibbāne ānisaṃsaṃ pakāsesi.

Và những vị này, nhờ Thế Tôn Vipassī bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy, khuyến khích, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với pháp thoại, không bao lâu tâm trí không còn chấp thủ, được giải thoát khỏi các lậu hoặc.
Tesaṃ vipassinā bhagavatā arahatā sammāsambuddhena dhammiyā kathāya sandassiyamānānaṃ samādapiyamānānaṃ samuttejiyamānānaṃ sampahaṃsiyamānānaṃ nacirasseva anupādāya āsavehi cittāni vimucciṃsu.

Này các Tỷ-kheo, nay 84,000 các vị xuất gia từ trước, được nghe:
Assosuṃ kho, bhikkhave, tāni purimāni caturāsītipabbajitasahassāni:

“Thế Tôn Vipassā, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã đến kinh thành Bandhumatì, ở tại Lộc Uyển Khema và thuyết pháp”.
‘vipassī kira bhagavā arahaṃ sammāsambuddho bandhumatiṃ rājadhāniṃ anuppatto kheme migadāye viharati, dhammañca kira desetī’ti.

Này các Tỷ-kheo, tám vạn bốn ngàn vị xuất gia này, đi đến Lộc Uyển Khema, chỗ Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ở. Khi đến nơi, các vị này đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên.
Atha kho, bhikkhave, tāni caturāsītipabbajitasahassāni yena bandhumatī rājadhānī yena khemo migadāyo yena vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā vipassiṃ bhagavantaṃ arahantaṃ sammāsambuddhaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.

Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuận thứ thuyết pháp.
Tesaṃ vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho anupubbiṃ kathaṃ kathesi.

Thuyết về bố thí, thuyết về trì giới, thuyết về các cõi trời, trình bày sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô của dục vọng và sự lợi ích của xuất ly.
Seyyathidaṃ—dānakathaṃ sīlakathaṃ saggakathaṃ kāmānaṃ ādīnavaṃ okāraṃ saṅkilesaṃ nekkhamme ānisaṃsaṃ pakāsesi.

Khi Thế Tôn biết được tâm trí của các vị này đã thuần thục, nhu thuận, thoát ly triền cái, cao thượng và an tịnh, Ngài bèn thuyết pháp thoại mà chư Phật đã đề cao, tức là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo.
Yadā te bhagavā aññāsi kallacitte muducitte vinīvaraṇacitte udaggacitte pasannacitte, atha yā buddhānaṃ sāmukkaṃsikā dhammadesanā, taṃ pakāsesi—dukkhaṃ samudayaṃ nirodhaṃ maggaṃ.

Cũng như tấm vải thuần tịnh, không có tỳ vết, rất dễ thấm màu nhuộm; cũng vậy 8,400 vị xuất gia này, chính tại chỗ ngồi này, chứng được pháp nhãn xa trần ly cấu:
Seyyathāpi nāma suddhaṃ vatthaṃ apagatakāḷakaṃ sammadeva rajanaṃ paṭiggaṇheyya; evameva tesaṃ caturāsītipabbajitasahassānaṃ tasmiṃyeva āsane virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi:

“Phàm pháp gì đã sanh ra rồi cũng phải diệt”.
‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman’ti.

Những vị này đã thấy pháp, chứng pháp, ngộ pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ tiêu trừ, do dự diệt tận, chứng được tự tín, không y cứ người khác đối với đạo pháp của đức Bổn Sư, liền bạch Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác:
Te diṭṭhadhammā pattadhammā viditadhammā pariyogāḷhadhammā tiṇṇavicikicchā vigatakathaṅkathā vesārajjappattā aparappaccayā satthusāsane vipassiṃ bhagavantaṃ arahantaṃ sammāsambuddhaṃ etadavocuṃ:

“Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, Bạch Thế Tôn!
‘abhikkantaṃ, bhante, abhikkantaṃ, bhante.

Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích.
Seyyathāpi, bhante, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya: “cakkhumanto rūpāni dakkhantī”ti; evamevaṃ bhagavatā anekapariyāyena dhammo pakāsito.

Bạch Thế Tôn, nay chúng con quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y Tăng.
Ete mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāma dhammañca bhikkhusaṅghañca.

Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn cho chúng con được xuất gia với Thế Tôn, mong Thế Tôn cho chúng con được thọ đại giới!”
Labheyyāma mayaṃ, bhante, bhagavato santike pabbajjaṃ labheyyāma upasampadan’ti.

Này các Tỷ-kheo, tám vạn bốn ngàn vị xuất gia với Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được thọ đại giới.
Alatthuṃ kho, bhikkhave, tāni caturāsītipabbajitasahassāni vipassissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa santike pabbajjaṃ alatthuṃ upasampadaṃ.

Rồi Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy những vị này, khuyến khích, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với pháp thoại, nêu rõ sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô của các pháp hữu vi và sự lợi ích của Niết Bàn.
Te vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṃsesi; saṅkhārānaṃ ādīnavaṃ okāraṃ saṅkilesaṃ nibbāne ānisaṃsaṃ pakāsesi.

Và những vị này nhờ Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy, khuyến khích, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với pháp thoại, không bao lâu tâm trí không còn chấp thủ, được giải thoát khỏi các lậu hoặc.
Tesaṃ vipassinā bhagavatā arahatā sammāsambuddhena dhammiyā kathāya sandassiyamānānaṃ samādapiyamānānaṃ samuttejiyamānānaṃ sampahaṃsiyamānānaṃ nacirasseva anupādāya āsavehi cittāni vimucciṃsu.

Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ đại chúng Tỷ-kheo khoảng 6,800,000 vị trú tại kinh đô Bandhumatī.
Tena kho pana, bhikkhave, samayena bandhumatiyā rājadhāniyā mahābhikkhusaṅgho paṭivasati aṭṭhasaṭṭhibhikkhusatasahassaṃ.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, trong khi yên lặng tịnh cư đã suy nghĩ như sau:
Atha kho, bhikkhave, vipassissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi:

“Nay đại chúng Tỷ-kheo khoảng sáu trăm tám mươi vạn vị trú tại kinh thành Bandhumatī. Sao Ta lại không khuyến dạy các vị Tỷ-kheo ấy:
‘mahā kho etarahi bhikkhusaṅgho bandhumatiyā rājadhāniyā paṭivasati aṭṭhasaṭṭhibhikkhusatasahassaṃ, yannūnāhaṃ bhikkhū anujāneyyaṃ:

“Này các Tỷ-kheo, hãy đi cùng khắp, vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài Người, loài Trời; vhớ có đi hai người cùng một chỗ.
“caratha, bhikkhave, cārikaṃ bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ; mā ekena dve agamittha;

Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết giảng chánh pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa văn đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy nêu rõ đời sống phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh.
desetha, bhikkhave, dhammaṃ ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāsetha.

Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe chánh pháp sẽ bị nguy hại, nếu được nghe, sẽ thâm hiểu chánh pháp.
Santi sattā apparajakkhajātikā, assavanatā dhammassa parihāyanti, bhavissanti dhammassa aññātāro.

Cứ sáu năm, hãy đến tại kinh đô Bandhumatī để tụng đọc giới bổn”.
Api ca channaṃ channaṃ vassānaṃ accayena bandhumatī rājadhānī upasaṅkamitabbā pātimokkhuddesāyā”’ti.

Này các Tỷ-kheo, một vị Ðại Phạm thiên khác, với tâm tư của mình biết được tâm tư của Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Như một vị lực sĩ duỗi cánh tay co lại hay co lại cánh tay đã duỗi ra, vị này biến mất ở cõi Phạm thiên và hiện ra trước mặt Thế Tôn Vipassi, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
Atha kho, bhikkhave, aññataro mahābrahmā vipassissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa cetasā cetoparivitakkamaññāya seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya; evameva—brahmaloke antarahito vipassissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa purato pāturahosi.

Này các Tỷ kheo, lúc bấy giờ vị Ðại Phạm thiên, đắp thượng y trên một bên vai, chắp tay hướng đến Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác và bạch Ngài:
Atha kho so, bhikkhave, mahābrahmā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yena vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho tenañjaliṃ paṇāmetvā vipassiṃ bhagavantaṃ arahantaṃ sammāsambuddhaṃ etadavoca:

‘Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ!
‘evametaṃ, bhagavā, evametaṃ, sugata.

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy khuyến dạy đại chúng Tỷ-kheo khoảng 6,800,000 vị ở kinh đô Bandhumatī:
Mahā kho, bhante, etarahi bhikkhusaṅgho bandhumatiyā rājadhāniyā paṭivasati aṭṭhasaṭṭhibhikkhusatasahassaṃ, anujānātu, bhante, bhagavā bhikkhū:

“Này các Tỷ-kheo hãy đi cùng khắp, vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài Người, loài Trời; chớ có đi hai người cùng một chỗ.
“caratha, bhikkhave, cārikaṃ bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ; mā ekena dve agamittha;

Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết giảng chánh pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa văn đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy nêu rõ phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh.
desetha, bhikkhave, dhammaṃ ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāsetha.

Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe chánh pháp sẽ bị nguy hại. Nếu được nghe, sẽ thâm hiểu chánh pháp”.
Santi sattā apparajakkhajātikā, assavanatā dhammassa parihāyanti, bhavissanti dhammassa aññātāro”ti.

Bạch Thế Tôn, chúng con sẽ làm như các vị Tỷ-kheo. Sau sáu năm, các vị này đến kinh đô Bandhumatī để tụng đọc giới bổn”.
Api ca, bhante, mayaṃ tathā karissāma yathā bhikkhū channaṃ channaṃ vassānaṃ accayena bandhumatiṃ rājadhāniṃ upasaṅkamissanti pātimokkhuddesāyā’ti.

Này các Tỷ-kheo, Ðại Phạm thiên thuyết như vậy.
Idamavoca, bhikkhave, so mahābrahmā.

Sau khi nói xong, vị này đảnh lễ Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, lưng bên hữu hướng về Ngài và biến mất tại chỗ.
Idaṃ vatvā vipassiṃ bhagavantaṃ arahantaṃ sammāsambuddhaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tattheva antaradhāyi.

Này các Tỷ-kheo, rồi Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vào buổi chiều xuất định đứng dậy và nói với các vị Tỷ-kheo:
Atha kho, bhikkhave, vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito bhikkhū āmantesi:

Này các Tỷ-kheo, trong khi Ta yên lặng tịnh cư tại chỗ thanh vắng, ý nghĩ sau đây khởi lên:
‘idha mayhaṃ, bhikkhave, rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi:

“Nay đại chúng Tỷ-kheo khoảng 6,800,000 vị trú tại kinh thành Bandhamatī.
“mahā kho etarahi bhikkhusaṅgho bandhumatiyā rājadhāniyā paṭivasati aṭṭhasaṭṭhibhikkhusatasahassaṃ.

Sao Ta lại không khuyến dạy các Tỷ-kheo ấy:
Yannūnāhaṃ bhikkhū anujāneyyaṃ—

“Này các Tỷ-kheo, hãy đi cùng khắp vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài Người, loài Trời; chớ có đi hai người cùng một chỗ.
caratha, bhikkhave, cārikaṃ bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ; mā ekena dve agamittha;

Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết giảng chánh pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa lý đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy nêu rõ đời sống phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh.
desetha, bhikkhave, dhammaṃ ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāsetha.

Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe chánh pháp sẽ bị nguy hại. Nếu được nghe, sẽ thâm hiểu chánh pháp.
Santi sattā apparajakkhajātikā, assavanatā dhammassa parihāyanti, bhavissanti dhammassa aññātāro.

Cứ sau sáu năm, hãy đến tại kinh đô Bandhumatī để tụng đọc giới bổn”.
Api ca channaṃ channaṃ vassānaṃ accayena bandhumatī rājadhānī upasaṅkamitabbā pātimokkhuddesāyā”’ti.

Này các Tỷ-kheo, một Ðại Phạm thiên khác với tâm tư của mình, biết được tâm tư của Ta. Như một vị lực sĩ duỗi cánh tay đã co lại hay co lại cánh tay đã duỗi ra, vị này biến mất ở cõi Phạm thiên và hiện ra trước mắt Ta.
Atha kho, bhikkhave, aññataro mahābrahmā mama cetasā cetoparivitakkamaññāya seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya; evameva—brahmaloke antarahito mama purato pāturahosi.

Này các Tỷ-kheo, vị Ðại Phạm thiên, đắp thượng y trên một bên vai, chấp tay hướng đến Ta và bạch với ta:
Atha kho so, bhikkhave, mahābrahmā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yenāhaṃ tenañjaliṃ paṇāmetvā maṃ etadavoca:

“Như vậy là phải, Bạch Thế Tôn! Như vậy là phải. Bạch Thiện Thệ!
‘evametaṃ, bhagavā, evametaṃ, sugata.

Bạch Thế Tôn! Thế Tôn hãy khuyến dạy đại chúng Tỷ-kheo khoảng sáu trăm tám mươi vạn vị ở kinh đô Bandhumatī.
Mahā kho, bhante, etarahi bhikkhusaṅgho bandhumatiyā rājadhāniyā paṭivasati aṭṭhasaṭṭhibhikkhusatasahassaṃ.

Sao Ta lại không khuyến dạy các Tỷ-kheo ấy:
Anujānātu, bhante, bhagavā bhikkhū—

“Này các Tỷ-kheo, hãy đi cùng khắp, vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài Người, loài Trời; chớ có đi hai người cùng một chỗ.
caratha, bhikkhave, cārikaṃ bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ; mā ekena dve agamittha;

Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết giảng chánh pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa lý đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy nêu rõ phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh
desetha, bhikkhave, dhammaṃ ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāsetha.

Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe chánh pháp, sẽ bị nguy hại. Nếu được nghe, sẽ thâm hiểu chánh pháp.
santi sattā apparajakkhajātikā, assavanatā dhammassa parihāyanti, bhavissanti dhammassa aññātāroti.

Bạch Thế Tôn, chúng con sẽ làm như các Tỷ-kheo. Sau sáu năm các vị này sẽ đến kinh đô Bandhumatī để tụng đọc giới bổn”.
Api ca, bhante, mayaṃ tathā karissāma, yathā bhikkhū channaṃ channaṃ vassānaṃ accayena bandhumatiṃ rājadhāniṃ upasaṅkamissanti pātimokkhuddesāyā’ti.

Này các Tỷ-kheo, vị Ðại Phạm thiên thuyết như vậy.
Idamavoca, bhikkhave, so mahābrahmā.

Sau khi nói xong, vị này đảnh lễ Ta, lưng bên hữu hướng về Ta và biến mất tại chỗ.
Idaṃ vatvā maṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tattheva antaradhāyi.

Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến dạy các ngươi: “Này các Tỷ-kheo, hãy đi cùng khắp, vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài Người, loài Trời; chớ có đi hai người cùng một chỗ;
‘Anujānāmi, bhikkhave, caratha cārikaṃ bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ; mā ekena dve agamittha;

Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết giảng chánh pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa lý đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy nêu rõ đời sống phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh.
desetha, bhikkhave, dhammaṃ ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāsetha.

Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe giảng chánh pháp sẽ bị nguy hại. Nếu được nghe, sẽ thâm hiểu chánh pháp.
Santi sattā apparajakkhajātikā, assavanatā dhammassa parihāyanti, bhavissanti dhammassa aññātāro.

Cứ sau sáu năm, hãy đến tại kinh đô Bandhumatī để tụng đọc giới bổn”.
Api ca, bhikkhave, channaṃ channaṃ vassānaṃ accayena bandhumatī rājadhānī upasaṅkamitabbā pātimokkhuddesāyā’ti.

Này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo ấy, một phần lớn trong ngày ấy đã lên đường đi khắp quốc độ.
Atha kho, bhikkhave, bhikkhū yebhuyyena ekāheneva janapadacārikaṃ pakkamiṃsu.

Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ tại Jambudīpa (Diêm phù đề) có 84000 túc xá.
Tena kho pana samayena jambudīpe caturāsīti āvāsasahassāni honti.

Khi một năm vừa mãn, chư Thiên tuyên bố:
Ekamhi hi vasse nikkhante devatā saddamanussāvesuṃ:

‘Này Hiền giả, một năm vừa mãn; nay còn lại năm năm, sau năm năm, hãy đến tại kinh đô Bandhamatī để tụng đọc giới bổn!”
‘nikkhantaṃ kho, mārisā, ekaṃ vassaṃ; pañca dāni vassāni sesāni, pañcannaṃ vassānaṃ accayena bandhumatī rājadhānī upasaṅkamitabbā pātimokkhuddesāyā’ti.

Hai năm đã mãn, chư Thiên tuyên bố: “Này Hiền giả, hai năm vừa mãn, nay còn lại bốn năm. Sau bốn năm, hãy đến tại kinh đô Bandhumatī để tụng đọc giới bổn!”.
Dvīsu vassesu nikkhantesu ...

Ba năm đã mãn, chư Thiên tuyên bố: “Này Hiền giả, ba năm đã mãn, nay còn lại ba năm. Sau ba năm, hãy đến tại kinh đô Bandhumatī để tụng đọc giới bổn!”.
tīsu vassesu nikkhantesu ...

Bốn năm đã mãn, chư Thiên tuyên bố: “Này Hiền giả, bốn năm đã mãn, nay còn hai năm. Sau hai năm, hãy đến kinh đô Bandhumatī để tụng đọc giới bổn!”
catūsu vassesu nikkhantesu ...

Năm năm đã mãn, chư Thiên tuyên bố:
pañcasu vassesu nikkhantesu devatā saddamanussāvesuṃ:

“Này Hiền giả, năm năm đã mãn; nay còn lại một năm; sau một năm, hãy đến tại kinh đô Bandhumatī để tụng đọc giới bổn!”
‘nikkhantāni kho, mārisā, pañcavassāni; ekaṃ dāni vassaṃ sesaṃ; ekassa vassassa accayena bandhumatī rājadhānī upasaṅkamitabbā pātimokkhuddesāyā’ti.

Sáu năm đã mãn, chư Thiên tuyên bố:
Chasu vassesu nikkhantesu devatā saddamanussāvesuṃ:

“Này Hiền giả, sáu năm đã mãn, nay đã đến ngày đi đến kinh đô Bandhumatī để tụng đọc giới bổn”.
‘nikkhantāni kho, mārisā, chabbassāni, samayo dāni bandhumatiṃ rājadhāniṃ upasaṅkamituṃ pātimokkhuddesāyā’ti.

Này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy, một số vị với thần lực của mình, một số với thần lực của chư Thiên trong ngày ấy đã đi đến kinh đô Bandhumatī để tụng đọc giới bổn.
Atha kho te, bhikkhave, bhikkhū appekacce sakena iddhānubhāvena appekacce devatānaṃ iddhānubhāvena ekāheneva bandhumatiṃ rājadhāniṃ upasaṅkamiṃsu pātimokkhuddesāyāti.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giữa chúng Tỷ-kheo, tụng đọc giới bổn này:
Tatra sudaṃ, bhikkhave, vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho bhikkhusaṅghe evaṃ pātimokkhaṃ uddisati:

“Nhẫn nhục, khổ hạnh, kham nhẫn, là đệ nhất.
‘Khantī paramaṃ tapo titikkhā,

“Chư Phật dạy Niết-bàn là đệ nhất.
Nibbānaṃ paramaṃ vadanti buddhā;

“Người xuất gia hại người xuất gia khác.
Na hi pabbajito parūpaghātī,

“Hại người khác như vậy không xứng gọi là Sa-môn.
Na samaṇo hoti paraṃ viheṭhayanto.

“Mọi điều ác không làm,
Sabbapāpassa akaraṇaṃ,

Hướng tâm các thiện nghiệp.
kusalassa upasampadā;

“Giữ tâm trí thanh tịnh,
Sacittapariyodapanaṃ,

Chính lời chư Phật dạy.
etaṃ buddhānasāsanaṃ.

“Không chỉ trích, không đánh đập,
Anūpavādo anūpaghāto,

Giữ mình trong giới bổn.
Pātimokkhe ca saṃvaro;

Ăn uống có tiết độ,
Mattaññutā ca bhattasmiṃ,

Ngủ nghỉ riêng một mình.
Pantañca sayanāsanaṃ;

Hướng tâm đến cao khiết,
Adhicitte ca āyogo,

Chính lời chư Phật dạy”..’
Etaṃ buddhānasāsanan’ti.

Này các Tỷ-kheo, một thời ta ở tại Ukkhattha (Úc-Già La), trong rừng Subhaga, dưới gốc cây ta-la vương.
Ekamidāhaṃ, bhikkhave, samayaṃ ukkaṭṭhāyaṃ viharāmi subhagavane sālarājamūle.

Này các Tỷ-kheo, trong khi Ta an lặng tịnh cư, tư tưởng sau đây khởi lên:
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi:

“Có một trú xứ, một loại chúng sanh rất dễ đến mà Ta từ trước không đến ở trong một thời gian khá lâu! Ðó là chư Thiên Suddhāvāsa (Tịnh Cư thiên).
‘na kho so sattāvāso sulabharūpo, yo mayā anāvutthapubbo iminā dīghena addhunā aññatra suddhāvāsehi devehi.

Vậy nay Ta hãy đến chư Thiên ở Tịnh Cư thiên!”
Yannūnāhaṃ yena suddhāvāsā devā tenupasaṅkameyyan’ti.

Này các Tỷ-kheo, như một lực sĩ duỗi cánh tay đã co lại, hay co lại cánh tay đã duỗi ra, Ta biến mất ở Ukkattha, trong rừng Subhaga, dưới gốc cây Ta-La vương và hiện ra trước chư Thiên ở Tịnh Cư thiên.
Atha khvāhaṃ, bhikkhave, seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya; evameva—ukkaṭṭhāyaṃ subhagavane sālarājamūle antarahito avihesu devesu pāturahosiṃ.

Trong đại chúng chư Thiên ấy một số vài ngàn chư Thiên đến chỗ Ta ở, đảnh lễ Ta và đứng một bên, chư Thiên ấy đã nói với Ta như sau:
Tasmiṃ, bhikkhave, devanikāye anekāni devatāsahassāni anekāni devatāsatasahassāni yenāhaṃ tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Ekamantaṃ ṭhitā kho, bhikkhave, tā devatā maṃ etadavocuṃ:

“Này Hiền giả, nay đã được chín mươi mốt kiếp, từ khi Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời.
‘ito so, mārisā, ekanavutikappe yaṃ vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho loke udapādi.

Này Hiền giả, Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc chủng tánh Sát Ðế Ly.
Vipassī, mārisā, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho khattiyo jātiyā ahosi, khattiyakule udapādi.

Này Hiền giả, Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh Koṇḍañña (Câu-Ly-Nhã).
Vipassī, mārisā, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho koṇḍañño gottena ahosi.

Này Hiền giả, Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác sống 80.000 năm.
Vipassissa, mārisā, bhagavato arahato sammāsambuddhassa asītivassasahassāni āyuppamāṇaṃ ahosi.

Này Hiền giả, trong thời Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây Pātali (Ba-ba-la).
Vipassī, mārisā, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho pāṭaliyā mūle abhisambuddho.

Này Hiền giả, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử của Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Khanda (Kiển-trà) và Tissa (Ðề-xá).
Vipassissa, mārisā, bhagavato arahato sammāsambuddhassa khaṇḍatissaṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ.

Này Hiền giả, trong thời Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội.
Vipassissa, mārisā, bhagavato arahato sammāsambuddhassa tayo sāvakānaṃ sannipātā ahesuṃ.

Một Tăng hội 6,800,000 Tỷ-kheo, một Tăng hội 100,000 Tỷ-kheo, một Tăng hội 80,000 Tỷ-kheo.
Eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi aṭṭhasaṭṭhibhikkhusatasahassaṃ. Eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi bhikkhusatasahassaṃ. Eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi asītibhikkhusahassāni.

Tất cả đều là bậc Lậu tận.
Vipassissa, mārisā, bhagavato arahato sammāsambuddhassa ime tayo sāvakānaṃ sannipātā ahesuṃ sabbesaṃyeva khīṇāsavānaṃ.

Này Hiền giả, Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, có vị thị giả Tỷ-kheo tên Asoka (A-dục), vị này là vị thị giả đệ nhất.
Vipassissa, mārisā, bhagavato arahato sammāsambuddhassa asoko nāma bhikkhu upaṭṭhāko ahosi aggupaṭṭhāko.

Này Hiền giả, phụ vương Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tên là Bandhuma. Mẫu hậu tên là Bandhumatī (Bàn-đầu-bà-đề). Kinh thành của vua Bandhuma tên là Bandhumatī.
Vipassissa, mārisā, bhagavato arahato sammāsambuddhassa bandhumā nāma rājā pitā ahosi. Bandhumatī nāma devī mātā ahosi janetti. Bandhumassa rañño bandhumatī nāma nagaraṃ rājadhānī ahosi.

Này Hiền giả, Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác xuất thế tục như thế này, xuất gia như thế này, tinh tấn như thế này, giác ngộ như thế này, chuyển pháp luân như thế này.
Vipassissa, mārisā, bhagavato arahato sammāsambuddhassa evaṃ abhinikkhamanaṃ ahosi evaṃ pabbajjā evaṃ padhānaṃ evaṃ abhisambodhi evaṃ dhammacakkappavattanaṃ.

Này Hiền giả, chúng con là những người đã tu phạm hạnh với Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã diệt trừ dục vọng và đã sanh ra tại chỗ này”.
Te mayaṃ, mārisā, vipassimhi bhagavati brahmacariyaṃ caritvā kāmesu kāmacchandaṃ virājetvā idhūpapannā’ti ...

Và các Chư Thiên khác đã đến và nói chi tiết về Đức Phật Sikhī, Vessabhū, Kakusandha, Koṇāgamana và Kassapa.
pe...

Này các Tỷ-kheo, lại trong đại chúng chư Thiên ấy, một số vài ngàn chư Thiên một số vài trăm chư Thiên đến chỗ Ta ở, đảnh lễ Ta và đứng một bên. Này các Tỷ-kheo, sau khi đứng một bên, chư Thiên ấy đã nói với Ta:
Tasmiṃyeva kho, bhikkhave, devanikāye anekāni devatāsahassāni anekāni devatāsatasahassāni yenāhaṃ tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Ekamantaṃ ṭhitā kho, bhikkhave, tā devatā maṃ etadavocuṃ:

“Này Hiền giả, trong tiền kiếp này, Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nay ra đời.
‘imasmiṃyeva kho, mārisā, bhaddakappe bhagavā etarahi arahaṃ sammāsambuddho loke uppanno.

Này Hiền giả, Thế Tôn, thuộc chủng tánh Sát-đế -lỵ, thuộc gia tộc Sát-đế-lỵ.
Bhagavā, mārisā, khattiyo jātiyā khattiyakule uppanno.

Hiền giả, Thế Tôn thuộc danh tánh Gotama (Cù-đàm).
Bhagavā, mārisā, gotamo gottena.

Này Hiền giả, Thế Tôn tuổi thọ không bao nhiêu, ít oi, tuổi thọ loài người khoảng một trăm năm hay hơn một chút.
Bhagavato, mārisā, appakaṃ āyuppamāṇaṃ parittaṃ lahukaṃ yo ciraṃ jīvati, so vassasataṃ appaṃ vā bhiyyo.

Này Hiền giả, Thế Tôn giác ngộ dưới gốc cây Assattha (bát-đa-la).
Bhagavā, mārisā, assatthassa mūle abhisambuddho.

Này Hiền giả, Thế Tôn có hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử tên là Sāriputta và Moggallāna (Xá-lợi-phất và Mục kiền-liên).
Bhagavato, mārisā, sāriputtamoggallānaṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ.

Này Hiền giả, Thế Tôn có một Tăng hội 1,250 vị. Này Hiền giả, Tăng hội này của Thế Tôn gồm toàn những vị đã diệt trừ lậu hoặc.
Bhagavato, mārisā, eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi aḍḍhateḷasāni bhikkhusatāni. Bhagavato, mārisā, ayaṃ eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi sabbesaṃyeva khīṇāsavānaṃ.

Này Hiền giả, Thế Tôn có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Ānanda (A-nan), vị này là thị giả đệ nhất.
Bhagavato, mārisā, ānando nāma bhikkhu upaṭṭhāko ahosi aggupaṭṭhāko.

Này Hiền giả, phụ vương của Thế Tôn tên là Suddhodana (Tịnh Phạn). Hoàng hậu là Māyā (Ma-gia). Kinh đô là Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ).
Bhagavato, mārisā, suddhodano nāma rājā pitā ahosi. Māyā nāma devī mātā ahosi janetti. Kapilavatthu nāma nagaraṃ rājadhānī ahosi.

Này Hiền giả, Thế Tôn xuất thế tục như thế này, xuất gia như thế này, tinh tấn như thế này, giác ngộ như thế này, chuyển pháp luân như thế này.
Bhagavato, mārisā, evaṃ abhinikkhamanaṃ ahosi evaṃ pabbajjā evaṃ padhānaṃ evaṃ abhisambodhi evaṃ dhammacakkappavattanaṃ.

Này Hiền giả, chúng tôi là những người đã tu phạm hạnh với Thế Tôn, đã diệt trừ dục vọng và đã sanh ra tại chỗ này”.
Te mayaṃ, mārisā, bhagavati brahmacariyaṃ caritvā kāmesu kāmacchandaṃ virājetvā idhūpapannā’ti.

Này các Tỷ-kheo, rồi Ta cùng với chư Thiên Avihā (Vô Nhiệt thiên) đến chư Thiên Atappā (Vô Phiền thiên).
Atha khvāhaṃ, bhikkhave, avihehi devehi saddhiṃ yena atappā devā tenupasaṅkamiṃ ...pe...

Này các Tỷ-kheo, rồi cùng với chư Thiên Avihā và chư Thiên Atappā đến chư Thiên Sudassā (Thiện Kiến thiên).
atha khvāhaṃ, bhikkhave, avihehi ca devehi atappehi ca devehi saddhiṃ yena sudassā devā tenupasaṅkamiṃ.

Này các Tỷ-kheo, rồi Ta cùng với chư Thiên Avihā, chư Thiên Atappā và chư Thiên Sudassa đến chư Thiên Sudassi (Thiện Hiện thiên).
Atha khvāhaṃ, bhikkhave, avihehi ca devehi atappehi ca devehi sudassehi ca devehi saddhiṃ yena sudassī devā tenupasaṅkamiṃ.

Này các Tỷ-kheo, rồi Ta cùng với chư Thiên Avihā, chư Thiên Atappā, chư Thiên Sudassā và chư Thiên Sudassī đến chư Thiên Akanitthā (Sắc Cứu Kính thiên).
Atha khvāhaṃ, bhikkhave, avihehi ca devehi atappehi ca devehi sudassehi ca devehi sudassīhi ca devehi saddhiṃ yena akaniṭṭhā devā tenupasaṅkamiṃ.

Này các Tỷ-kheo, lại trong Ðại chúng chư Thiên ấy, một số vài ngàn chư Thiên đến chỗ Ta ở, đảnh lễ Ta và đứng một bên. Này các Tỷ-kheo, sau khi đứng một bên, chư Thiên ấy đã nói với Ta như sau:
Tasmiṃ, bhikkhave, devanikāye anekāni devatāsahassāni anekāni devatāsatasahassāni yenāhaṃ tenupasaṅkamiṃsu, upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Ekamantaṃ ṭhitā kho, bhikkhave, tā devatā maṃ etadavocuṃ:

“Này Hiền giả, nay đã được chín mươi mốt kiếp, từ khi Thế Tôn Vipassī, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời...
‘ito so, mārisā, ekanavutikappe yaṃ vipassī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho loke udapādi. Vipassī, mārisā, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho khattiyo jātiyā ahosi. Khattiyakule udapādi. Vipassī, mārisā, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho koṇḍañño gottena ahosi. Vipassissa, mārisā, bhagavato arahato sammāsambuddhassa asītivassasahassāni āyuppamāṇaṃ ahosi. Vipassī, mārisā, bhagavā arahaṃ sammāsambuddho pāṭaliyā mūle abhisambuddho. Vipassissa, mārisā, bhagavato arahato sammāsambuddhassa khaṇḍatissaṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ. Vipassissa, mārisā, bhagavato arahato sammāsambuddhassa tayo sāvakānaṃ sannipātā ahesuṃ. Eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi aṭṭhasaṭṭhibhikkhusatasahassaṃ. Eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi bhikkhusatasahassaṃ. Eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi asītibhikkhusahassāni. Vipassissa, mārisā, bhagavato arahato sammāsambuddhassa ime tayo sāvakānaṃ sannipātā ahesuṃ sabbesaṃyeva khīṇāsavānaṃ. Vipassissa, mārisā, bhagavato arahato sammāsambuddhassa asoko nāma bhikkhu upaṭṭhāko ahosi aggupaṭṭhāko. Vipassissa, mārisā, bhagavato arahato sammāsambuddhassa bandhumā nāma rājā pitā ahosi bandhumatī nāma devī mātā ahosi janetti. Bandhumassa rañño bandhumatī nāma nagaraṃ rājadhānī ahosi. Vipassissa, mārisā, bhagavato arahato sammāsambuddhassa evaṃ abhinikkhamanaṃ ahosi evaṃ pabbajjā evaṃ padhānaṃ evaṃ abhisambodhi, evaṃ dhammacakkappavattanaṃ. Te mayaṃ, mārisā, vipassimhi bhagavati brahmacariyaṃ caritvā kāmesu kāmacchandaṃ virājetvā idhūpapannā’ti. Tasmiṃyeva kho, bhikkhave, devanikāye anekāni devatāsahassāni anekāni devatāsatasahassāni yenāhaṃ tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Ekamantaṃ ṭhitā kho, bhikkhave, tā devatā maṃ etadavocuṃ: ‘ito so, mārisā, ekatiṃse kappe yaṃ sikhī bhagavā ...pe... te mayaṃ, mārisā, sikhimhi bhagavati tasmiññeva kho, mārisā, ekatiṃse kappe yaṃ vessabhū bhagavā ...pe... te mayaṃ, mārisā, vessabhumhi bhagavati ...pe... imasmiṃyeva kho, mārisā, bhaddakappe kakusandho koṇāgamano kassapo bhagavā ...pe... te mayaṃ, mārisā, kakusandhamhi koṇāgamanamhi kassapamhi bhagavati brahmacariyaṃ caritvā kāmesu kāmacchandaṃ virājetvā idhūpapannā’ti.

Này các Tỷ-kheo, lại trong đại chúng chư Thiên ấy, một số vài ngàn chư Thiên (như trước) một số vài trăm chư Thiên đến chỗ Ta ở, đảnh lễ Ta và đứng một bên. Này các Tỷ-kheo, sau khi đứng một bên, chư Thiên ấy đã nói với Ta như sau:
Tasmiṃyeva kho, bhikkhave, devanikāye anekāni devatāsahassāni anekāni devatāsatasahassāni yenāhaṃ tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Ekamantaṃ ṭhitā kho, bhikkhave, tā devatā maṃ etadavocuṃ:

“Này Hiền giả, trong tiền kiếp này đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nay ra đời...
‘imasmiṃyeva kho, mārisā, bhaddakappe bhagavā etarahi arahaṃ sammāsambuddho loke uppanno.Bhagavā, mārisā, khattiyo jātiyā, khattiyakule uppanno. Bhagavā, mārisā, gotamo gottena. Bhagavato, mārisā, appakaṃ āyuppamāṇaṃ parittaṃ lahukaṃ yo ciraṃ jīvati, so vassasataṃ appaṃ vā bhiyyo. Bhagavā, mārisā, assatthassa mūle abhisambuddho. Bhagavato, mārisā, sāriputtamoggallānaṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ. Bhagavato, mārisā, eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi aḍḍhateḷasāni bhikkhusatāni. Bhagavato, mārisā, ayaṃ eko sāvakānaṃ sannipāto ahosi sabbesaṃyeva khīṇāsavānaṃ. Bhagavato, mārisā, ānando nāma bhikkhu upaṭṭhāko aggupaṭṭhāko ahosi. Bhagavato, mārisā, suddhodano nāma rājā pitā ahosi. Māyā nāma devī mātā ahosi janetti. Kapilavatthu nāma nagaraṃ rājadhānī ahosi. Bhagavato, mārisā, evaṃ abhinikkhamanaṃ ahosi, evaṃ pabbajjā, evaṃ padhānaṃ, evaṃ abhisambodhi, evaṃ dhammacakkappavattanaṃ. Te mayaṃ, mārisā, bhagavati brahmacariyaṃ caritvā kāmesu kāmacchandaṃ virājetvā idhūpapannā’ti.

Này các Tỷ-kheo, như vậy Như Lai khéo chứng đạt pháp giới này, Như Lai nhớ chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết-bàn, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh các vị này cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau:
Iti kho, bhikkhave, tathāgatassevesā dhammadhātu suppaṭividdhā, yassā dhammadhātuyā suppaṭividdhattā tathāgato atīte buddhe parinibbute chinnapapañce chinnavaṭume pariyādinnavaṭṭe sabbadukkhavītivatte jātitopi anussarati, nāmatopi anussarati, gottatopi anussarati, āyuppamāṇatopi anussarati, sāvakayugatopi anussarati, sāvakasannipātatopi anussarati ‘evaṃjaccā te bhagavanto ahesuṃ’ itipi.

“Các bậc Thế Tôn này, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là như vậy”.
‘Evaṃnāmā evaṅgottā evaṃsīlā evaṃdhammā evaṃpaññā evaṃvihārī evaṃvimuttā te bhagavanto ahesuṃ’ itipīti.

Và các Chư Thiên cũng đã nói với ta.
Devatāpi tathāgatassa etamatthaṃ ārocesuṃ, yena tathāgato atīte buddhe parinibbute chinnapapañce chinnavaṭume pariyādinnavaṭṭe sabbadukkhavītivatte jātitopi anussarati, nāmatopi anussarati, gottatopi anussarati, āyuppamāṇatopi anussarati, sāvakayugatopi anussarati, sāvakasannipātatopi anussarati ‘evaṃjaccā te bhagavanto ahesuṃ’ itipi. ‘Evaṃnāmā evaṅgottā evaṃsīlā evaṃdhammā evaṃpaññā evaṃvihārī evaṃvimuttā te bhagavanto ahesuṃ’ itipī”ti.

Thế Tôn thuyết pháp như vậy. Các vị Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
Idamavoca bhagavā. Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.

Mahāpadānasuttaṃ niṭṭhitaṃ paṭhamaṃ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt