Trường Bộ 27
Dīgha Nikāya 27
Kinh Khởi Thế Nhân Bổn
Aggaññasutta
Như vầy tôi nghe:
Evaṃ me sutaṃ—
Một thời Thế Tôn trú tại Sāvatthi (Xá-vệ), Pubbārāma (Thành Tín Viên lâm), ở lầu của Migāramātu (Lộc Mẫu Giảng đường).
ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati pubbārāme migāramātupāsāde.
Lúc bấy giờ, Vāseṭṭha và Bhāradvāja sống giữa các vị Tỷ kheo và muốn trở thành Tỷ kheo.
Tena kho pana samayena vāseṭṭhabhāradvājā bhikkhūsu parivasanti bhikkhubhāvaṃ ākaṅkhamānā.
Thế Tôn vào buổi chiều, từ thiền tịnh khởi dậy, bước xuống khỏi lầu, đi qua lại giữa trời, dưới bóng ngôi lầu.
Atha kho bhagavā sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito pāsādā orohitvā pāsādapacchāyāyaṃ abbhokāse caṅkamati.
Vāseṭṭha thấy Thế Tôn vào buổi chiều, từ thiền tịnh khởi dậy, bước xuống khỏi ngôi lầu, đi qua lại giữa trời, dưới bóng ngôi lầu.
Addasā kho vāseṭṭho bhagavantaṃ sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhitaṃ pāsādā orohitvā pāsādapacchāyāyaṃ abbhokāse caṅkamantaṃ.
Thấy vậy Vāseṭṭha nói với Bhāradvāja:
Disvāna bhāradvājaṃ āmantesi:
“Này bạn Bhāradvāja, Thế Tôn vào buổi chiều, từ thiền tịnh khởi dậy, bước xuống khỏi lầu, đi qua lại giữa trời, dưới bóng ngôi lầu.
“ayaṃ, āvuso bhāradvāja, bhagavā sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito pāsādā orohitvā pāsādapacchāyāyaṃ abbhokāse caṅkamati.
Này bạn Bhāradvāja, chúng ta hãy đến yết kiến Thế Tôn.
Āyāmāvuso bhāradvāja, yena bhagavā tenupasaṅkamissāma;
Rất có thể chúng ta được nghe một thời pháp từ Thế Tôn.”
appeva nāma labheyyāma bhagavato santikā dhammiṃ kathaṃ savanāyā”ti.
Thưa vâng, Hiền giả! Bhāradvāja vâng theo lời Vāseṭṭha.
“Evamāvuso”ti kho bhāradvājo vāseṭṭhassa paccassosi.
Rồi cả Vāseṭṭha và Bhāradvāja cùng đến gần Thế Tôn, khi đến xong đảnh lễ Ngài và đi theo sau lưng Thế Tôn, khi Ngài đang đi qua đi lại.
Atha kho vāseṭṭhabhāradvājā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā bhagavantaṃ caṅkamantaṃ anucaṅkamiṃsu.
Rồi Thế Tôn nói với Vāseṭṭha:
Atha kho bhagavā vāseṭṭhaṃ āmantesi:
“Này Vāseṭṭha, Ngươi sanh trưởng là Bà-la-môn và thuộc gia tộc Bà-la-môn, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình từ gia tộc Bà-la-môn. Này Vāseṭṭha, người Bà-la-môn có chỉ trích Ngươi, phỉ báng Ngươi chăng?”
“tumhe khvattha, vāseṭṭha, brāhmaṇajaccā brāhmaṇakulīnā brāhmaṇakulā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitā, kacci vo, vāseṭṭha, brāhmaṇā na akkosanti na paribhāsantī”ti?
“Bạch Thế Tôn, các vị Bà-la-môn thật có chỉ trích chúng con, phỉ báng chúng con, với những lời phỉ báng thật chí tình, phỉ báng thật toàn diện, chớ không phải không toàn diện.”
“Taggha no, bhante, brāhmaṇā akkosanti paribhāsanti attarūpāya paribhāsāya paripuṇṇāya, no aparipuṇṇāyā”ti.
“Này Vāseṭṭha, các vị Bà-la-môn dùng lời lẽ như thế nào để chỉ trích các Ngươi, phỉ báng các Ngươi, với những lời phỉ báng thật chí tình, phỉ báng thật toàn diện, chớ không phải không toàn diện?”
“Yathā kathaṃ pana vo, vāseṭṭha, brāhmaṇā akkosanti paribhāsanti attarūpāya paribhāsāya paripuṇṇāya, no aparipuṇṇāyā”ti?
“Bạch Thế Tôn, các vị Bà-la-môn đã nói như sau:
“Brāhmaṇā, bhante, evamāhaṃsu:
‘Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt.
‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīnā aññe vaṇṇā.
Chỉ có giai cấp Bà-la-môn là da trắng, giai cấp khác là da đen.
Brāhmaṇova sukko vaṇṇo, kaṇhā aññe vaṇṇā.
Chỉ có Bà-la-môn là thuần túy, các giai cấp phi Bà-la-môn không phải như vậy.
Brāhmaṇāva sujjhanti, no abrāhmaṇā.
Chỉ có Bà-la-môn mới là con chính tông của Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh, do Phạm thiên tạo ra, là con cháu thừa tự của Phạm thiên.
Brāhmaṇāva brahmuno puttā orasā mukhato jātā brahmajā brahmanimmitā brahmadāyādā.
Các Ngươi đã từ bỏ giai cấp tối thượng, cúi mình vào giai cấp hạ tiện – giai cấp các Sa môn trọc đầu, đê tiện, đen đủi, giòng giống thuộc bàn chân.
Te tumhe seṭṭhaṃ vaṇṇaṃ hitvā hīnamattha vaṇṇaṃ ajjhupagatā, yadidaṃ muṇḍake samaṇake ibbhe kaṇhe bandhupādāpacce.
Làm vậy thật là không tốt, làm vậy thật là không hợp, khi các Ngươi từ bỏ giai cấp tối thượng, cúi mình vào giai cấp hạ tiện, giai cấp Bà-la-môn trọc đầu, đê tiện, đen đủi, giòng giống thuộc bàn chân”.
Tayidaṃ na sādhu, tayidaṃ nappatirūpaṃ, yaṃ tumhe seṭṭhaṃ vaṇṇaṃ hitvā hīnamattha vaṇṇaṃ ajjhupagatā yadidaṃ muṇḍake samaṇake ibbhe kaṇhe bandhupādāpacce’ti.
Bạch Thế Tôn, như vậy các vị Bà-la-môn chỉ trích chúng con, phỉ báng chúng con, với những lời phỉ báng thật chí tình, phỉ báng thật toàn diện, chớ không phải không toàn diện.”
Evaṃ kho no, bhante, brāhmaṇā akkosanti paribhāsanti attarūpāya paribhāsāya paripuṇṇāya, no aparipuṇṇāyā”ti.
Này Vāseṭṭha, các người Bà-la-môn thật đã quên quá khứ khi họ nói:
“Taggha vo, vāseṭṭha, brāhmaṇā porāṇaṃ assarantā evamāhaṃsu:
“Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ tiện.
‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīnā aññe vaṇṇā;
Chỉ có giai cấp Bà-la-môn là da trắng, giai cấp khác là da đen.
brāhmaṇova sukko vaṇṇo, kaṇhā aññe vaṇṇā;
Chỉ có Bà-la-môn là thuần túy, các giai cấp phi Bà-la-môn không phải như vậy.
brāhmaṇāva sujjhanti, no abrāhmaṇā;
Chỉ có Bà-la-môn mới là con chính tông của Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh, do Phạm thiên tạo ra, là con cháu thừa tự của Phạm thiên”.
brāhmaṇāva brahmuno puttā orasā mukhato jātā brahmajā brahmanimmitā brahmadāyādā’ti.
Này Vāseṭṭha, các nữ Bà-la-môn, vợ của các Bà-la-môn được thấy là có kinh nguyệt, có mang thai, có sanh con, có cho con bú.
Dissanti kho pana, vāseṭṭha, brāhmaṇānaṃ brāhmaṇiyo utuniyopi gabbhiniyopi vijāyamānāpi pāyamānāpi.
Và những Bà-la-môn ấy chính do thai sanh, lại nói rằng:
Te ca brāhmaṇā yonijāva samānā evamāhaṃsu:
‘Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ tiện.
‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīnā aññe vaṇṇā;
Chỉ có giai cấp Bà-la-môn là da trắng, giai cấp khác là da đen.
brāhmaṇova sukko vaṇṇo, kaṇhā aññe vaṇṇā;
Chỉ có Bà-la-môn là thuần túy, các giai cấp phi Bà-la-môn không phải như vậy.
brāhmaṇāva sujjhanti, no abrāhmaṇā;
Chỉ có Bà-la-môn mới là con chính tông của Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh, do Phạm thiên tạo ra, là con cháu thừa tự của Phạm thiên”.
brāhmaṇāva brahmuno puttā orasā mukhato jātā brahmajā brahmanimmitā brahmadāyādā’ti.
Họ xuyên tạc các Bà-la-môn, nói sai sự thật và tạo nhiều ác nghiệp.
Te brahmānañceva abbhācikkhanti, musā ca bhāsanti, bahuñca apuññaṃ pasavanti.
Này Vāseṭṭha, có bốn giai cấp:
Cattārome, vāseṭṭha, vaṇṇā—
Sát đế lỵ, Bà-la-môn, Phệ xá và Sudda (Thủ-đà-la).
khattiyā, brāhmaṇā, vessā, suddā.
Này Vāseṭṭha, có người Sát đế lỵ sát sanh, lấy của không cho, có tà hạnh, nói láo, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tâm tham, có tâm sân, có tà kiến.
Khattiyopi kho, vāseṭṭha, idhekacco pāṇātipātī hoti adinnādāyī kāmesumicchācārī musāvādī pisuṇavāco pharusavāco samphappalāpī abhijjhālu byāpannacitto micchādiṭṭhī.
Này Vāseṭṭha, những pháp ấy là bất thiện và được gọi là bất thiện; những pháp ấy là có tội và được gọi là có tội; những pháp ấy không nên hành trì và được gọi là các pháp không nên hành trì; những pháp ấy không xứng Thánh pháp và được gọi là không xứng Thánh pháp; những pháp ấy là hắc pháp và hắc báo; những pháp ấy bị người có trí quở trách. Ở đây, những pháp ấy được tìm thấy trong một số người Sát đế lỵ.
Iti kho, vāseṭṭha, yeme dhammā akusalā akusalasaṅkhātā sāvajjā sāvajjasaṅkhātā asevitabbā asevitabbasaṅkhātā naalamariyā naalamariyasaṅkhātā kaṇhā kaṇhavipākā viññugarahitā, khattiyepi te idhekacce sandissanti.
Này Vāseṭṭha, có người Bà-la-môn...
Brāhmaṇopi kho, vāseṭṭha ...pe...
Này Vāseṭṭha, có người Phệ xá...
vessopi kho, vāseṭṭha ...pe...
Này Vāseṭṭha, có người Thủ đà la sát sanh, lấy của không cho, có tà hạnh, nói láo, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tâm tham, có tâm sân, có tà kiến.
suddopi kho, vāseṭṭha, idhekacco pāṇātipātī hoti adinnādāyī kāmesumicchācārī musāvādī pisuṇavāco pharusavāco samphappalāpī abhijjhālu byāpannacitto micchādiṭṭhī.
Này Vāseṭṭha, những pháp ấy là bất thiện và được gọi là bất thiện...là hắc pháp và hắc báo; những pháp ấy bị người có trí quở trách. Ở đây, những pháp ấy được tìm thấy trong một số người Thủ đà la.
Iti kho, vāseṭṭha, yeme dhammā akusalā akusalasaṅkhātā ...pe...kaṇhā kaṇhavipākā viññugarahitā; suddepi te idhekacce sandissanti.
Này Vāseṭṭha, có người Sát đế lỵ không sát sanh, không lấy của không cho, không có tà hạnh, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói ác khẩu, không nói lời phù phiếm, không có tâm tham, không có tâm sân, có chánh kiến.
Khattiyopi kho, vāseṭṭha, idhekacco pāṇātipātā paṭivirato hoti, adinnādānā paṭivirato, kāmesumicchācārā paṭivirato, musāvādā paṭivirato, pisuṇāya vācāya paṭivirato, pharusāya vācāya paṭivirato, samphappalāpā paṭivirato, anabhijjhālu abyāpannacitto, sammādiṭṭhī.
Này Vāseṭṭha, những pháp ấy là thiện và được gọi là thiện; những pháp ấy không có tội và được gọi là không có tội; những pháp ấy nên hành trì và được gọi là các pháp nên hành trì; những pháp ấy xứng Thánh pháp và được gọi là xứng Thánh pháp; những pháp ấy là bạch pháp và có bạch quả; những pháp ấy được người có trí tán thán. Ở đây, những pháp ấy được tìm thấy trong một số người Sát đế lỵ.
Iti kho, vāseṭṭha, yeme dhammā kusalā kusalasaṅkhātā anavajjā anavajjasaṅkhātā sevitabbā sevitabbasaṅkhātā alamariyā alamariyasaṅkhātā sukkā sukkavipākā viññuppasatthā, khattiyepi te idhekacce sandissanti.
Này Vāseṭṭha, có người Bà-la-môn...
Brāhmaṇopi kho, vāseṭṭha ...pe...
Này Vāseṭṭha, có người Phệ xá...
vessopi kho, vāseṭṭha ...pe...
Này Vāseṭṭha, có người Thủ đà la không sát sanh...không có tham tâm, không có sân tâm, có chánh kiến.
suddopi kho, vāseṭṭha, idhekacco pāṇātipātā paṭivirato hoti ...pe...anabhijjhālu, abyāpannacitto, sammādiṭṭhī.
Này Vāseṭṭha, những pháp ấy là thiện và được gọi là thiện; những pháp ấy không có tội và được gọi là không có tội; những pháp ấy nên hành trì và được gọi là các pháp nên hành trì; những pháp ấy xứng Thánh pháp và được gọi là xứng Thánh pháp; những pháp ấy là bạch pháp và có bạch quả; những pháp được người có trí tán thán.
Iti kho, vāseṭṭha, yeme dhammā kusalā kusalasaṅkhātā anavajjā anavajjasaṅkhātā sevitabbā sevitabbasaṅkhātā alamariyā alamariyasaṅkhātā sukkā sukkavipākā viññuppasatthā;
Ở đây, những pháp ấy được tìm thấy trong một số người Thủ đà la.
suddepi te idhekacce sandissanti.
Này Vāseṭṭha, vì rằng cả hai pháp hắc và bạch được chỉ trích và được tán thán bởi những người có trí, đều có mặt lẫn lộn trong bốn giai cấp này, nên ở đây, những Bà-la-môn nào nói rằng:
Imesu kho, vāseṭṭha, catūsu vaṇṇesu evaṃ ubhayavokiṇṇesu vattamānesu kaṇhasukkesu dhammesu viññugarahitesu ceva viññuppasatthesu ca yadettha brāhmaṇā evamāhaṃsu:
“Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, các giai cấp khác là hạ liệt;
‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīnā aññe vaṇṇā;
chỉ có giai cấp Bà-la-môn là da trắng, giai cấp khác là da đen;
brāhmaṇova sukko vaṇṇo, kaṇhā aññe vaṇṇā;
chỉ có Bà-la-môn là thuần túy, các giai cấp phi Bà-la-môn không phải như vậy;
brāhmaṇāva sujjhanti, no abrāhmaṇā;
chỉ có Bà-la-môn là con chính tông của Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh, do Phạm thiên tạo ra, là con cháu thừa tự của Phạm thiên.”
brāhmaṇāva brahmuno puttā orasā mukhato jātā brahmajā brahmanimmitā brahmadāyādā’ti.
Các vị có trí không thể chấp nhận như vậy.
Taṃ tesaṃ viññū nānujānanti.
Tại sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Này Vāseṭṭha, vì rằng nếu có ai trong bốn giai cấp là một vị Tỷ kheo, một vị A la hán, các lậu hoặc đã được diệt tận, phạm hạnh đã thành, đã làm những việc phải làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt mục đích tối thượng, hữu kiết sử đã diệt, nhờ chánh trí đã được giải thoát, vị ấy sẽ được xem là tối thượng so sánh với bốn giai cấp, vì xứng với Pháp, không phải không xứng với Pháp.
Imesañhi, vāseṭṭha, catunnaṃ vaṇṇānaṃ yo hoti bhikkhu arahaṃ khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṃyojano sammadaññāvimutto, so nesaṃ aggamakkhāyati dhammeneva, no adhammena.
Này Vāseṭṭha, Pháp là tối thượng giữa các loài hữu tình, trong đời này và cả đời sau.
Dhammo hi, vāseṭṭha, seṭṭho janetasmiṃ, diṭṭhe ceva dhamme abhisamparāyañca.
Này Vāseṭṭha, đây là một chứng minh điển hình để biết vì sao Pháp là tối thượng giữa các loài hữu tình, trong đời này và cả đời sau.
Tadamināpetaṃ, vāseṭṭha, pariyāyena veditabbaṃ, yathā dhammova seṭṭho janetasmiṃ, diṭṭhe ceva dhamme abhisamparāyañca.
Này Vāseṭṭha, vua Pasenadi (Ba tư nặc) nước Kosala biết rằng:
Jānāti kho, vāseṭṭha, rājā pasenadi kosalo:
“Sa môn Gotama xuất gia từ giòng họ Sākyā. Này Vāseṭṭha, vua Pasenadi nước Kosala hết lòng, nhiệt tình với giòng họ Sākyā.
‘samaṇo gotamo anantarā sakyakulā pabbajito’ti. Sakyā kho pana, vāseṭṭha, rañño pasenadissa kosalassa anuyuttā bhavanti.
Này Vāseṭṭha, dòng họ Sākyā cũng bày tỏ sự tôn trọng, đảnh lễ, đứng dậy, chấp tay và đối xử với vua Pasenadi nước Kosala rất lễ độ phải phép.
Karonti kho, vāseṭṭha, sakyā raññe pasenadimhi kosale nipaccakāraṃ abhivādanaṃ paccuṭṭhānaṃ añjalikammaṃ sāmīcikammaṃ.
Cũng vậy, này Vāseṭṭha, vua Pasenadi nước Kosala tôn trọng, đảnh lễ, đứng dậy, chấp tay và đối xử với Như Lai rất lễ độ, phải phép, vì vua nghĩ: “Có phải Sa môn Gotama là thiện sanh? Còn ta không phải thiện sanh;
Iti kho, vāseṭṭha, yaṃ karonti sakyā raññe pasenadimhi kosale nipaccakāraṃ abhivādanaṃ paccuṭṭhānaṃ añjalikammaṃ sāmīcikammaṃ, karoti taṃ rājā pasenadi kosalo tathāgate nipaccakāraṃ abhivādanaṃ paccuṭṭhānaṃ añjalikammaṃ sāmīcikammaṃ, na naṃ ‘sujāto samaṇo gotamo, dujjātohamasmi.
Sa môn Gotama có hùng lực, ta không có hùng lực;
Balavā samaṇo gotamo, dubbalohamasmi.
Sa môn Gotama có dáng mặt đẹp đẽ, còn ta có dáng mặt thô xấu;
Pāsādiko samaṇo gotamo, dubbaṇṇohamasmi.
Sa môn Gotama là vị có nhiều thế lực, còn ta ít có thế lực?”
Mahesakkho samaṇo gotamo, appesakkhohamasmī’ti.
Vì rằng vua Pasenadi nước Kosala tôn trọng Pháp, cung kính Pháp, đảnh lễ Pháp, cúng dường Pháp, kính lễ Pháp nên vua tôn trọng, đảnh lễ, đứng dậy, chấp tay và đối xử với Như Lai rất lễ độ, phải phép.
Atha kho naṃ dhammaṃyeva sakkaronto dhammaṃ garuṃ karonto dhammaṃ mānento dhammaṃ pūjento dhammaṃ apacāyamāno evaṃ rājā pasenadi kosalo tathāgate nipaccakāraṃ karoti, abhivādanaṃ paccuṭṭhānaṃ añjalikammaṃ sāmīcikammaṃ.
Này Vāseṭṭha, với chứng minh điển hình này, cần hiểu như thế nào Pháp là tối thượng giữa các loài hữu tình, trong đời này và cả đời sau.
Imināpi kho etaṃ, vāseṭṭha, pariyāyena veditabbaṃ, yathā dhammova seṭṭho janetasmiṃ, diṭṭhe ceva dhamme abhisamparāyañca.
Này Vāseṭṭha, các Ngươi, sanh sai biệt, danh sai biệt, tánh sai biệt, gia hệ sai biệt, đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Tumhe khvattha, vāseṭṭha, nānājaccā nānānāmā nānāgottā nānākulā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitā.
Nếu có ai hỏi: “Các vị là ai?”, các Ngươi cần trả lời: “Chúng tôi là Sa môn, dưới sự lãnh đạo của Thích ca tử”.
‘Ke tumhe’ti—puṭṭhā samānā ‘samaṇā sakyaputtiyāmhā’ti—paṭijānātha.
Này Vāseṭṭha, ai có lòng tin Như Lai, lòng tin ấy được an trí, có căn đế, an trú và chắc chắn, một lòng tin không bị lôi kéo bởi Sa môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay một vị nào ở trên đời, vị ấy có thể nói:
Yassa kho panassa, vāseṭṭha, tathāgate saddhā niviṭṭhā mūlajātā patiṭṭhitā daḷhā asaṃhāriyā samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmiṃ, tassetaṃ kallaṃ vacanāya:
“Ta là con chính tông của Thế Tôn, sanh ra từ miệng, do Pháp sanh, do Pháp tạo ra, là con cháu thừa tự của Pháp.”
‘bhagavatomhi putto oraso mukhato jāto dhammajo dhammanimmito dhammadāyādo’ti.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Này Vāseṭṭha, vì là những chữ đồng nghĩa với Như Lai là Pháp thân, là Phạm thân, là Pháp thể, là Phạm thể.
Tathāgatassa hetaṃ, vāseṭṭha, adhivacanaṃ ‘dhammakāyo’ itipi, ‘brahmakāyo’ itipi, ‘dhammabhūto’ itipi, ‘brahmabhūto’ itipi.
Này Vāseṭṭha, có một thời đến một giai đoạn nào đó, sau một thời hạn rất lâu, thế giới này chuyển hoại.
Hoti kho so, vāseṭṭha, samayo yaṃ kadāci karahaci dīghassa addhuno accayena ayaṃ loko saṃvaṭṭati.
Trong khi thế giới chuyển hoại, các loại hữu tình phần lớn sanh qua cõi Abhassara (Quang Âm thiên).
Saṃvaṭṭamāne loke yebhuyyena sattā ābhassarasaṃvattanikā honti.
Ở tại đây, những loại chúng sanh này do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh, và sống như vậy một thời gian khá dài.
Te tattha honti manomayā pītibhakkhā sayaṃpabhā antalikkhacarā subhaṭṭhāyino ciraṃ dīghamaddhānaṃ tiṭṭhanti.
Này Vāseṭṭha, có một thời đến một giai đoạn nào đó, sau một thời hạn rất lâu, thế giới này chuyển thành.
Hoti kho so, vāseṭṭha, samayo yaṃ kadāci karahaci dīghassa addhuno accayena ayaṃ loko vivaṭṭati.
Trong khi thế giới này chuyển thành, một số lớn chúng sanh từ Quang Âm thiên thác sanh qua tại đây.
Vivaṭṭamāne loke yebhuyyena sattā ābhassarakāyā cavitvā itthattaṃ āgacchanti.
Những chúng sanh này do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh và sống như vậy một thời gia khá dài.
Tedha honti manomayā pītibhakkhā sayaṃpabhā antalikkhacarā subhaṭṭhāyino ciraṃ dīghamaddhānaṃ tiṭṭhanti.
Này Vāseṭṭha, lúc bấy giờ, vạn vật trở thành một thế giới toàn nước đen sẫm, một màu đen khiến mắt phải mù.
Ekodakībhūtaṃ kho pana, vāseṭṭha, tena samayena hoti andhakāro andhakāratimisā.
Mặt trăng, mặt trời không hiện ra; sao và chòm sao không hiện ra; không có ngày đêm; không có tháng và nửa tháng; không có năm và thời tiết; không có đàn bà đàn ông. Các loài hữu tình chỉ được xem là loài hữu tình mà thôi.
Na candimasūriyā paññāyanti, na nakkhattāni tārakarūpāni paññāyanti, na rattindivā paññāyanti, na māsaḍḍhamāsā paññāyanti, na utusaṃvaccharā paññāyanti, na itthipumā paññāyanti, sattā sattātveva saṅkhyaṃ gacchanti.
Này Vāseṭṭha, đối với các loài hữu tình ấy, sau một thời gian rất lâu, vị đất tan ra trong nước.
Atha kho tesaṃ, vāseṭṭha, sattānaṃ kadāci karahaci dīghassa addhuno accayena rasapathavī udakasmiṃ samatani;
Như bọt nổi lên trên mặt cháo sữa nóng đang nguội dần, cũng vậy đất hiện ra.
seyyathāpi nāma payaso tattassa nibbāyamānassa upari santānakaṃ hoti; evameva pāturahosi.
Ðất này có màu sắc, có hương và có vị. Màu sắc của đất giống như đề hồ hay thuần túy như tô.
Sā ahosi vaṇṇasampannā gandhasampannā rasasampannā, seyyathāpi nāma sampannaṃ vā sappi sampannaṃ vā navanītaṃ evaṃvaṇṇā ahosi.
Và vị của đất như mật ong thuần tịnh.
Seyyathāpi nāma khuddamadhuṃ aneḷakaṃ; evamassādā ahosi.
Này Vāseṭṭha, có loài hữu tình, có tánh tham, nói:
Atha kho, vāseṭṭha, aññataro satto lolajātiko:
“Kìa xem, vật này là gì vậy?”, lấy ngón tay nếm vị của đất.
‘ambho, kimevidaṃ bhavissatī’ti rasapathaviṃ aṅguliyā sāyi.
Khi lấy ngón tay nếm vị của đất, vị ấy thấm vào thân và tham ái khởi lên.
Tassa rasapathaviṃ aṅguliyā sāyato acchādesi, taṇhā cassa okkami.
Này Vāseṭṭha, các loài hữu tình khác, theo gương hữu tình kia, lấy ngón tay nếm vị của đất.
Aññepi kho, vāseṭṭha, sattā tassa sattassa diṭṭhānugatiṃ āpajjamānā rasapathaviṃ aṅguliyā sāyiṃsu.
Khi lấy ngón tay nếm vị của đất, vị ấy thấm vào thân và tham ái khởi lên.
Tesaṃ rasapathaviṃ aṅguliyā sāyataṃ acchādesi, taṇhā ca tesaṃ okkami.
Này Vāseṭṭha, các loài hữu tình khác, theo gương hữu tình kia, lấy ngón tay nếm vị của đất.
Atha kho te, vāseṭṭha, sattā rasapathaviṃ hatthehi āluppakārakaṃ upakkamiṃsu paribhuñjituṃ.
Này Vāseṭṭha, khi lấy ngón tay nếm vị của đất, vị ấy thấm vào thân và tham ái khởi lên.
Yato kho te, vāseṭṭha, sattā rasapathaviṃ hatthehi āluppakārakaṃ upakkamiṃsu paribhuñjituṃ.
Rồi các hữu tình kia bắt đầu thưởng thức vị của đất, bằng cách bẻ từng cục đất với bàn tay nhỏ của họ, thời ánh sáng của họ biến mất.
Atha tesaṃ sattānaṃ sayaṃpabhā antaradhāyi.
Khi ánh sáng của họ biến mất, mặt trăng mặt trời hiện ra.
Sayaṃpabhāya antarahitāya candimasūriyā pāturahesuṃ.
Khi mặt trăng, mặt trời hiện ra, thì sao và chòm sao hiện ra.
Candimasūriyesu pātubhūtesu nakkhattāni tārakarūpāni pāturahesuṃ.
Khi sao và chòm sao hiện ra, ngày và đêm hiện ra,
Nakkhattesu tārakarūpesu pātubhūtesu rattindivā paññāyiṃsu.
khi ngày và đêm hiện ra, thì nửa tháng và tháng hiện ra.
Rattindivesu paññāyamānesu māsaḍḍhamāsā paññāyiṃsu.
Khi nửa tháng và tháng hiện ra, thời tiết và năm hiện ra.
Māsaḍḍhamāsesu paññāyamānesu utusaṃvaccharā paññāyiṃsu.
Như vậy, này Vāseṭṭha, thế giới này bắt đầu thành trở lại.
Ettāvatā kho, vāseṭṭha, ayaṃ loko puna vivaṭṭo hoti.
Này Vāseṭṭha, những hữu tình ấy, thưởng thức vị của đất, lấy đất làm chất ăn, lấy đất làm món ăn trong một thời gian khá lâu.
Atha kho te, vāseṭṭha, sattā rasapathaviṃ paribhuñjantā tambhakkhā tadāhārā ciraṃ dīghamaddhānaṃ aṭṭhaṃsu.
Này Vāseṭṭha, vì các hữu tình ấy thưởng thức vị của đất, lấy đất làm chất ăn, lấy đất làm món ăn trong một thời gian khá lâu, thân của họ trở thành cứng rắn, và sắc đẹp của họ trở thành sai biệt.
Yathā yathā kho te, vāseṭṭha, sattā rasapathaviṃ paribhuñjantā tambhakkhā tadāhārā ciraṃ dīghamaddhānaṃ aṭṭhaṃsu tathā tathā tesaṃ sattānaṃ rasapathaviṃ paribhuñjantānaṃ kharattañceva kāyasmiṃ okkami, vaṇṇavevaṇṇatā ca paññāyittha.
Có hạng hữu tình có sắc đẹp, có hạng hữu tình không có sắc đẹp.
Ekidaṃ sattā vaṇṇavanto honti, ekidaṃ sattā dubbaṇṇā.
Ở đây các hữu tình có sắc đẹp khinh các hữu tình không có sắc đẹp:
Tattha ye te sattā vaṇṇavanto, te dubbaṇṇe satte atimaññanti:
“Chúng ta có sắc đẹp hơn họ, họ không có sắc đẹp bằng chúng ta.”
‘mayametehi vaṇṇavantatarā, amhehete dubbaṇṇatarā’ti.
Do họ kiêu mạn và kiêu ngạo về sắc đẹp của họ, vị của đất biến mất.
Tesaṃ vaṇṇātimānapaccayā mānātimānajātikānaṃ rasapathavī antaradhāyi.
Khi vị của đất biến mất, họ hội họp lại và kêu than:
Rasāya pathaviyā antarahitāya sannipatiṃsu. Sannipatitvā anutthuniṃsu:
“Ôi vị ngon! Ôi vị ngon!”
‘aho rasaṃ, aho rasan’ti.
như ngày nay, khi loài Người có được vị ngon liền nói:
Tadetarahipi manussā kañcideva surasaṃ labhitvā evamāhaṃsu:
“Ôi vị ngon! Ôi vị ngon!”
‘aho rasaṃ, aho rasan’ti.
Như vậy họ theo văn tự truyền thống của thời xưa mà không biết ý nghĩa của nó.
Tadeva porāṇaṃ aggaññaṃ akkharaṃ anusaranti, na tvevassa atthaṃ ājānanti.
Này Vāseṭṭha, khi vị đất đã biến mất với các hữu tình ấy, thời một loại nấm đất hiện ra.
Atha kho tesaṃ, vāseṭṭha, sattānaṃ rasāya pathaviyā antarahitāya bhūmipappaṭako pāturahosi.
Như hình cây nấm, chúng hiện ra như vậy.
Seyyathāpi nāma ahicchattako; evameva pāturahosi.
Loại nấm ấy có sắc, có hương, có vị. Mầu sắc của loại nấm này giống như đề hồ hay thuần túy như tô.
So ahosi vaṇṇasampanno gandhasampanno rasasampanno, seyyathāpi nāma sampannaṃ vā sappi sampannaṃ vā navanītaṃ evaṃvaṇṇo ahosi.
Vị của đất như mật ong thuần tịnh.
Seyyathāpi nāma khuddamadhuṃ aneḷakaṃ; evamassādo ahosi.
Này Vāseṭṭha, những hữu tình ấy bắt đầu ăn thứ nấm đất.
Atha kho te, vāseṭṭha, sattā bhūmipappaṭakaṃ upakkamiṃsu paribhuñjituṃ.
Họ thưởng thức nấm đất, lấy nấm đất làm chất ăn, lấy nấm đất làm món ăn trong một thời gian khá lâu.
Te taṃ paribhuñjantā tambhakkhā tadāhārā ciraṃ dīghamaddhānaṃ aṭṭhaṃsu.
Này Vāseṭṭha, vì các chúng sanh ấy thưởng thức nấm đất, lấy nấm đất làm chất ăn, lấy nấm đất làm món ăn trong một thời gian khá lâu, nên thân của họ trở thành cứng rắn hơn và sắc đẹp của chúng lại càng sai biệt.
Yathā yathā kho te, vāseṭṭha, sattā bhūmipappaṭakaṃ paribhuñjantā tambhakkhā tadāhārā ciraṃ dīghamaddhānaṃ aṭṭhaṃsu tathā tathā tesaṃ sattānaṃ bhiyyoso mattāya kharattañceva kāyasmiṃ okkami, vaṇṇavevaṇṇatā ca paññāyittha.
Có hạng hữu tình có sắc đẹp, có hạng hữu tình không có sắc đẹp.
Ekidaṃ sattā vaṇṇavanto honti, ekidaṃ sattā dubbaṇṇā.
Ở đây các hữu tình có sắc đẹp khinh các hữu tình không có sắc đẹp:
Tattha ye te sattā vaṇṇavanto, te dubbaṇṇe satte atimaññanti:
“Chúng ta có sắc đẹp hơn họ, họ không có sắc đẹp bằng chúng ta”
‘mayametehi vaṇṇavantatarā, amhehete dubbaṇṇatarā’ti.
Do họ kiêu mạn và kiêu ngạo về sắc đẹp của họ, nấm đất biến mất.
Tesaṃ vaṇṇātimānapaccayā mānātimānajātikānaṃ bhūmipappaṭako antaradhāyi.
Khi nấm đất biến mất cỏ và cây leo hiện ra. Như loại cây tre, chúng hiện ra như vậy.
Bhūmipappaṭake antarahite padālatā pāturahosi, seyyathāpi nāma kalambukā; evameva pāturahosi.
Loại cây leo này có sắc, có hương, có vị. Mầu sắc của loại cây này giống như đề hồ hay thuần túy như tô.
Sā ahosi vaṇṇasampannā gandhasampannā rasasampannā, seyyathāpi nāma sampannaṃ vā sappi sampannaṃ vā navanītaṃ evaṃvaṇṇā ahosi.
Vị của loại cây leo này như mật ong thuần tịnh.
Seyyathāpi nāma khuddamadhuṃ aneḷakaṃ; evamassādā ahosi.
Này Vāseṭṭha, các hữu tình này bắt đầu thưởng thức loại cây leo này.
Atha kho te, vāseṭṭha, sattā padālataṃ upakkamiṃsu paribhuñjituṃ.
Chúng bắt đầu thưởng thức loại cây leo, lấy cây leo làm chất ăn, lấy cây leo làm món ăn trong một thời gian khá lâu.
Te taṃ paribhuñjantā tambhakkhā tadāhārā ciraṃ dīghamaddhānaṃ aṭṭhaṃsu.
Này Vāseṭṭha, vì những hữu tình này bắt đầu thưởng thức loại cây leo, lấy cây leo làm chất ăn, lấy cây leo làm món ăn trong một thời gian khá lâu nên thân của họ trở thành cứng rắn hơn và sắp đẹp của họ lại càng sai biệt.
Yathā yathā kho te, vāseṭṭha, sattā padālataṃ paribhuñjantā tambhakkhā tadāhārā ciraṃ dīghamaddhānaṃ aṭṭhaṃsu tathā tathā tesaṃ sattānaṃ bhiyyoso mattāya kharattañceva kāyasmiṃ okkami, vaṇṇavevaṇṇatā ca paññāyittha.
Có hạng hữu tình có sắc đẹp, có hạng hữu tình không có sắc đẹp.
Ekidaṃ sattā vaṇṇavanto honti, ekidaṃ sattā dubbaṇṇā.
Ở đây các hữu tình có sắc đẹp khinh các hữu tình không có sắc đẹp:
Tattha ye te sattā vaṇṇavanto, te dubbaṇṇe satte atimaññanti:
“Chúng ta có sắc đẹp hơn họ, họ không có sắc đẹp bằng chúng ta.”
‘mayametehi vaṇṇavantatarā, amhehete dubbaṇṇatarā’ti.
Do họ kiêu mạn và kiêu ngạo về sắc đẹp của họ, cỏ và cây leo biến mất.
Tesaṃ vaṇṇātimānapaccayā mānātimānajātikānaṃ padālatā antaradhāyi.
Khi cỏ và cây leo biến mất, họ hội họp lại và kêu than:
Padālatāya antarahitāya sannipatiṃsu. Sannipatitvā anutthuniṃsu:
“Ôi, cái này thuộc của chúng ta! Ôi hại thay cho chúng ta, nay cỏ và cây leo đã biến đi!”
‘ahu vata no, ahāyi vata no padālatā’ti.
như ngày nay khi loài Người được hỏi cái gì làm cho đau khổ, bèn trả lời:
Tadetarahipi manussā kenaci dukkhadhammena phuṭṭhā evamāhaṃsu:
“Ôi, cái này thuộc của chúng ta! Ôi hại thay cho chúng ta!”
‘ahu vata no, ahāyi vata no’ti.
Như vậy, họ theo văn tự truyền thống của thời xưa mà không biết ý nghĩa của nó.
Tadeva porāṇaṃ aggaññaṃ akkharaṃ anusaranti, na tvevassa atthaṃ ājānanti.
Này Vāseṭṭha, khi các loại cỏ, cây leo biến mất, thời lúa xuất hiện tại các khoảng trống, không có cám, không có vỏ, có mùi thơm và bột trơn nhẵn.
Atha kho tesaṃ, vāseṭṭha, sattānaṃ padālatāya antarahitāya akaṭṭhapāko sāli pāturahosi akaṇo athuso suddho sugandho taṇḍulapphalo.
Chỗ nào vào buổi chiều họ mang đi để ăn chiều, thời tại chỗ ấy, vào buổi sáng, lúa lại mọc lớn và chín.
Yaṃ taṃ sāyaṃ sāyamāsāya āharanti, pāto taṃ hoti pakkaṃ paṭivirūḷhaṃ.
Chỗ nào vào buổi sáng, họ mang đi để ăn sáng, thời tại chỗ ấy, vào buổi chiều lúa lại mọc lớn và chín.
Yaṃ taṃ pāto pātarāsāya āharanti, sāyaṃ taṃ hoti pakkaṃ paṭivirūḷhaṃ;
không có gián đoạn.
nāpadānaṃ paññāyati.
Này Vāseṭṭha, những hữu tình ấy thưởng thức lúa mọc tại các khoảng trống, lấy lúa làm chất ăn, lấy lúa làm món ăn trong một thời gian khá lâu.
Atha kho te, vāseṭṭha, sattā akaṭṭhapākaṃ sāliṃ paribhuñjantā tambhakkhā tadāhārā ciraṃ dīghamaddhānaṃ aṭṭhaṃsu.
Này Vāseṭṭha, vì các chúng sanh ấy thưởng thức lúa mọc tại khoảng trống, lấy lúa làm chất ăn, lấy lúa làm món ăn trong một thời gian khá lâu, thân hình của họ trở thành cứng rắn hơn và sắp đẹp của họ lại càng sai biệt. Về phái nữ, nữ tánh xuất hiện; về phái nam, nam tánh xuất hiện.
Yathā yathā kho te, vāseṭṭha, sattā akaṭṭhapākaṃ sāliṃ paribhuñjantā tambhakkhā tadāhārā ciraṃ dīghamaddhānaṃ aṭṭhaṃsu tathā tathā tesaṃ sattānaṃ bhiyyoso mattāya kharattañceva kāyasmiṃ okkami, vaṇṇavevaṇṇatā ca paññāyittha, itthiyā ca itthiliṅgaṃ pāturahosi purisassa ca purisaliṅgaṃ.
Phái nữ nhìn phái nam hết sức kỹ lưỡng, phái nam nhìn phái nữ hết sức kỹ lưỡng.
Itthī ca purisaṃ ativelaṃ upanijjhāyati puriso ca itthiṃ.
Vì họ nhìn nhau kỹ lưỡng như vậy nên tình dục khởi lên, ái luyến đối với thân thể bắt đầu.
Tesaṃ ativelaṃ aññamaññaṃ upanijjhāyataṃ sārāgo udapādi, pariḷāho kāyasmiṃ okkami.
Do sự ái luyến, họ làm các hạnh dâm.
Te pariḷāhapaccayā methunaṃ dhammaṃ paṭiseviṃsu.
Này Vāseṭṭha, lúc bấy giờ những chúng sanh ấy thấy làm các hạnh dâm như vậy, người thì quăng bùn, người thì quăng tro, người thì quăng phân bò và nói:
Ye kho pana te, vāseṭṭha, tena samayena sattā passanti methunaṃ dhammaṃ paṭisevante, aññe paṃsuṃ khipanti, aññe seṭṭhiṃ khipanti, aññe gomayaṃ khipanti:
“Hãy chết đi, đồ ô uế! Hãy chết đi, đồ ô uế!
‘nassa asuci, nassa asucī’ti.
Sao một loài hữu tình lại đối xử với một loài hữu tình khác như vậy?”
‘Kathañhi nāma satto sattassa evarūpaṃ karissatī’ti.
như ngày nay, tại một số quốc độ, khi một cô dâu được rước đi, có người quăng bùn, có người quăng tro, có người quăng phân bò.
Tadetarahipi manussā ekaccesu janapadesu vadhuyā nibbuyhamānāya aññe paṃsuṃ khipanti, aññe seṭṭhiṃ khipanti, aññe gomayaṃ khipanti.
Như vậy, chúng theo văn tự truyền thống xưa mà không biết ý nghĩa của nó.
Tadeva porāṇaṃ aggaññaṃ akkharaṃ anusaranti, na tvevassa atthaṃ ājānanti.
Này Vāseṭṭha, lúc bấy giờ việc làm được xem là phi pháp nay được xem là đúng pháp.
Adhammasammataṃ kho pana, vāseṭṭha, tena samayena hoti, tadetarahi dhammasammataṃ.
Này Vāseṭṭha, lúc bấy giờ các loài hữu tình ấy hành dâm không được phép vào làng hay xã ấp một tháng hay cả hai tháng.
Ye kho pana, vāseṭṭha, tena samayena sattā methunaṃ dhammaṃ paṭisevanti, te māsampi dvemāsampi na labhanti gāmaṃ vā nigamaṃ vā pavisituṃ.
Vì những hữu tình ấy lúc bấy giờ chỉ trích mau chóng,
Yato kho te, vāseṭṭha, sattā tasmiṃ asaddhamme ativelaṃ pātabyataṃ āpajjiṃsu.
vì hành động phi pháp, họ bắt đầu làm lầu, làm nhà để che dấu những hành động phi pháp của họ.
Atha agārāni upakkamiṃsu kātuṃ tasseva asaddhammassa paṭicchādanatthaṃ.
Này Vāseṭṭha, có loài hữu tình bản tánh biếng nhác tự nghĩ:
Atha kho, vāseṭṭha, aññatarassa sattassa alasajātikassa etadahosi:
“Sao ta lại tự làm ta mỏi mệt bằng cách đi tìm lúa buổi chiều cho buổi ăn chiều, buổi sáng cho buổi ăn sáng?
‘ambho, kimevāhaṃ vihaññāmi sāliṃ āharanto sāyaṃ sāyamāsāya pāto pātarāsāya.
Sao ta lại không tìm lúa một lần cho cả buổi ăn chiều và buổi ăn sáng?”
Yannūnāhaṃ sāliṃ āhareyyaṃ sakideva sāyapātarāsāyā’ti.
Này Vāseṭṭha, loài hữu tình ấy tìm lúa một lần cho cả buổi ăn chiều, cả buổi ăn sáng.
Atha kho so, vāseṭṭha, satto sāliṃ āhāsi sakideva sāyapātarāsāya.
Một hữu tình khác đến vị hữu tình này và nói:
Atha kho, vāseṭṭha, aññataro satto yena so satto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ sattaṃ etadavoca:
Này Bạn, chúng ta hãy đi tìm lúa!
‘ehi, bho satta, sālāhāraṃ gamissāmā’ti.
Này Bạn, tôi đã tìm lúa một lần, cả cho buổi chiều và buổi sáng.
‘Alaṃ, bho satta, āhato me sāli sakideva sāyapātarāsāyā’ti.
Này Vāseṭṭha, vị này noi theo vị hữu tình kia, đi tìm lúa một lần đủ cho cả hai ngày. Này Bạn, như vậy là tốt.
Atha kho so, vāseṭṭha, satto tassa sattassa diṭṭhānugatiṃ āpajjamāno sāliṃ āhāsi sakideva dvīhāya. ‘Evampi kira, bho, sādhū’ti.
Này Vāseṭṭha, rồi một hữu tình khác đến vị hữu tình ấy và nói:
Atha kho, vāseṭṭha, aññataro satto yena so satto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ sattaṃ etadavoca:
Này Bạn chúng ta hãy đi tìm lúa.
‘ehi, bho satta, sālāhāraṃ gamissāmā’ti.
Này Bạn, tôi đã tìm lúa một lần đủ cho cả hai ngày rồi.
‘Alaṃ, bho satta, āhato me sāli sakideva dvīhāyā’ti.
Này Vāseṭṭha, vị hữu tình này noi theo gương vị hữu tình kia, liền đi tìm lúa một lần đủ cho bốn ngày. Này Bạn, như vậy là tốt.
Atha kho so, vāseṭṭha, satto tassa sattassa diṭṭhānugatiṃ āpajjamāno sāliṃ āhāsi sakideva catūhāya, ‘evampi kira, bho, sādhū’ti.
Này Vāseṭṭha, một vị hữu tình khác lại đến vị hữu tình này và nói:
Atha kho, vāseṭṭha, aññataro satto yena so satto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ sattaṃ etadavoca:
Này Bạn, chúng ta hãy đi tìm lúa!
‘ehi, bho satta, sālāhāraṃ gamissāmā’ti.
Này Bạn, tôi đã tìm lúa một lần đủ cho cả bốn ngày!
‘Alaṃ, bho satta, āhato me sāli sakideva catūhāyā’ti.
Này Vāseṭṭha, vị hữu tình này noi theo gương vị hữu tình kia, liền đi tìm lúa một lần đủ cho tám ngày. Này Bạn, như vậy là tốt.
Atha kho so, vāseṭṭha, satto tassa sattassa diṭṭhānugatiṃ āpajjamāno sāliṃ āhāsi sakideva aṭṭhāhāya, ‘evampi kira, bho, sādhū’ti.
Này Vāseṭṭha, những vị hữu tình kia, bắt đầu tích trữ lúa để ăn,
Yato kho te, vāseṭṭha, sattā sannidhikārakaṃ sāliṃ upakkamiṃsu paribhuñjituṃ.
và cám bắt đầu bao bọc hột gạo trơn nhẵn và vỏ lúa bao bọc hột lúa;
Atha kaṇopi taṇḍulaṃ pariyonandhi, thusopi taṇḍulaṃ pariyonandhi;
và các cây lúa bị cắt không lớn lên được; và như vậy có sự gián đoạn; và cây lúa mọc lên từng cụm, từng chùm.
lūnampi nappaṭivirūḷhaṃ, apadānaṃ paññāyittha, saṇḍasaṇḍā sālayo aṭṭhaṃsu.
Này Vāseṭṭha, các loài hữu tình ấy hội họp lại và than phiền:
Atha kho te, vāseṭṭha, sattā sannipatiṃsu, sannipatitvā anutthuniṃsu:
Này các Bạn, các ác pháp đã hiện ra giữa các loài hữu tình.
‘pāpakā vata, bho, dhammā sattesu pātubhūtā.
Chúng ta trước kia do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh và sống như vậy trong một thời gian khá dài.
Mayañhi pubbe manomayā ahumhā pītibhakkhā sayaṃpabhā antalikkhacarā subhaṭṭhāyino, ciraṃ dīghamaddhānaṃ aṭṭhamhā.
Ðối với chúng ta, sau một thời gian khá dài, vị của đất hiện ra. Vị đất này có sắc, có hương và có vị. Chúng ta bắt đầu bẻ đất từng cục bằng tay để ăn vị đất. Vì bắt đầu bẻ đất bằng tay từng cục để ăn, nên hào quang biến mất. Vì hào quang biến mất nên mặt trời, mặt trăng hiện ra. Vì mặt trăng, mặt trời hiện ra nên các sao và chùm sao hiện ra. Vì các sao và chùm sao hiện ra, nên đêm, ngày hiện ra. Vì đêm, ngày hiện ra, nên nửa tháng và tháng hiện ra. Vì nửa tháng và tháng hiện ra, nên thời tiết và năm hiện ra. Chúng ta thưởng thức vị đất, lấy vị đất làm chất ăn, lấy vị đất làm món ăn trong một thời gian khá dài.
Tesaṃ no amhākaṃ kadāci karahaci dīghassa addhuno accayena rasapathavī udakasmiṃ samatani. Sā ahosi vaṇṇasampannā gandhasampannā rasasampannā. Te mayaṃ rasapathaviṃ hatthehi āluppakārakaṃ upakkamimha paribhuñjituṃ, tesaṃ no rasapathaviṃ hatthehi āluppakārakaṃ upakkamataṃ paribhuñjituṃ sayaṃpabhā antaradhāyi. Sayaṃpabhāya antarahitāya candimasūriyā pāturahesuṃ, candimasūriyesu pātubhūtesu nakkhattāni tārakarūpāni pāturahesuṃ, nakkhattesu tārakarūpesu pātubhūtesu rattindivā paññāyiṃsu, rattindivesu paññāyamānesu māsaḍḍhamāsā paññāyiṃsu. Māsaḍḍhamāsesu paññāyamānesu utusaṃvaccharā paññāyiṃsu. Te mayaṃ rasapathaviṃ paribhuñjantā tambhakkhā tadāhārā ciraṃ dīghamaddhānaṃ aṭṭhamhā.
Khi ác bất thiện pháp khởi lên giữa chúng ta, vị đất biến mất. Vì vị đất biến mất, nên nấm đất hiện ra. Nấm đất này có sắc, có hương và có vị. Chúng ta bắt đầu thưởng thức nấm đất ấy, lấy nấm đất làm chất ăn, lấy nấm đất làm món ăn trong một thời gian khá dài.
Tesaṃ no pāpakānaṃyeva akusalānaṃ dhammānaṃ pātubhāvā rasapathavī antaradhāyi. Rasapathaviyā antarahitāya bhūmipappaṭako pāturahosi. So ahosi vaṇṇasampanno gandhasampanno rasasampanno. Te mayaṃ bhūmipappaṭakaṃ upakkamimha paribhuñjituṃ. Te mayaṃ taṃ paribhuñjantā tambhakkhā tadāhārā ciraṃ dīghamaddhānaṃ aṭṭhamhā.
Vì các ác, bất thiện pháp này khởi lên giữa chúng ta nên nấm đất biến mất. Vì nấm đất biến mất, nên cỏ và cây leo hiện ra. Cỏ và cây leo này có sắc, có hương và có vị. Chúng ta bắt đầu thưởng thức cỏ và cây leo ấy, lấy cỏ và cây leo làm chất ăn, lấy cỏ và cây leo làm món ăn trong một thời gian khá dài.
Tesaṃ no pāpakānaṃyeva akusalānaṃ dhammānaṃ pātubhāvā bhūmipappaṭako antaradhāyi. Bhūmipappaṭake antarahite padālatā pāturahosi. Sā ahosi vaṇṇasampannā gandhasampannā rasasampannā. Te mayaṃ padālataṃ upakkamimha paribhuñjituṃ. Te mayaṃ taṃ paribhuñjantā tambhakkhā tadāhārā ciraṃ dīghamaddhānaṃ aṭṭhamhā.
Vì các ác, bất thiện pháp này xảy ra giữa chúng ta nên cỏ và cây leo biến mất. Vì cỏ và cây leo biến mất, nên lúa mọc tại khoảng trống hiện ra, không có cám, không có vỏ, thuần tịnh, có mùi thơm và hột trơn nhẵn. Chỗ nào vào buổi chiều, chúng ta mang đi để ăn chiều, thời tại chỗ ấy vào buổi sáng lúa lại mọc lớn và chín. Chỗ nào vào buổi sáng, chúng ta mang đi để ăn sáng, thời tại chỗ ấy vào buổi chiều, lúa lại mọc lớn và chín, không có gián đoạn. Chúng ta thưởng thức lúa mọc tại khoảng trống, lấy lúa làm chất ăn, lấy lúa làm món ăn trong một thời gian khá dài.
Tesaṃ no pāpakānaṃyeva akusalānaṃ dhammānaṃ pātubhāvā padālatā antaradhāyi. Padālatāya antarahitāya akaṭṭhapāko sāli pāturahosi akaṇo athuso suddho sugandho taṇḍulapphalo. Yaṃ taṃ sāyaṃ sāyamāsāya āharāma, pāto taṃ hoti pakkaṃ paṭivirūḷhaṃ. Yaṃ taṃ pāto pātarāsāya āharāma, sāyaṃ taṃ hoti pakkaṃ paṭivirūḷhaṃ. Nāpadānaṃ paññāyittha. Te mayaṃ akaṭṭhapākaṃ sāliṃ paribhuñjantā tambhakkhā tadāhārā ciraṃ dīghamaddhānaṃ aṭṭhamhā.
Vì các ác, bất thiện pháp ấy khởi lên giữa chúng ta, cám bắt đầu bọc hột lúa trơn nhẵn và vỏ lúa bao bọc hột lúa trơn nhẵn; và các cây lúc bị cắt không lớn lên được; và như vậy có sự gián đoạn. Và các cây lúa mọc lên từng cụm, từng chùm.
Tesaṃ no pāpakānaṃyeva akusalānaṃ dhammānaṃ pātubhāvā kaṇopi taṇḍulaṃ pariyonandhi, thusopi taṇḍulaṃ pariyonandhi, lūnampi nappaṭivirūḷhaṃ, apadānaṃ paññāyittha, saṇḍasaṇḍā sālayo ṭhitā.
Vậy nay, chúng ta hãy chia lúa và đắp đê làm bờ ruộng.
Yannūna mayaṃ sāliṃ vibhajeyyāma, mariyādaṃ ṭhapeyyāmā’ti.
Này Vāseṭṭha, các loại hữu tình ấy phân chia lúa và đắp đê làm bờ ruộng.
Atha kho te, vāseṭṭha, sattā sāliṃ vibhajiṃsu, mariyādaṃ ṭhapesuṃ.
Này Vāseṭṭha, có vị hữu tình, bản tánh biếng nhác, gìn giữ phần của mình, đánh cắp phần của người khác và thưởng thức phần ấy.
Atha kho, vāseṭṭha, aññataro satto lolajātiko sakaṃ bhāgaṃ parirakkhanto aññataraṃ bhāgaṃ adinnaṃ ādiyitvā paribhuñji.
Người ta bắt người ấy và nói:
Tamenaṃ aggahesuṃ, gahetvā etadavocuṃ:
Này Ngươi, Ngươi đã làm ác pháp, gìn giữ phần của mình, đánh cắp phần không cho của người khác và thưởng thức phần ấy.
‘pāpakaṃ vata, bho satta, karosi, yatra hi nāma sakaṃ bhāgaṃ parirakkhanto aññataraṃ bhāgaṃ adinnaṃ ādiyitvā paribhuñjasi.
Nhà Ngươi chớ có làm như vậy nữa.
Māssu, bho satta, punapi evarūpamakāsī’ti.
Thưa Bạn, vâng! Này Vāseṭṭha, người này vâng theo lời nói của những người ấy.
‘Evaṃ, bho’ti kho, vāseṭṭha, so satto tesaṃ sattānaṃ paccassosi.
Này Vāseṭṭha, một lần thứ hai...
Dutiyampi kho, vāseṭṭha, so satto ...pe...
Này Vāseṭṭha một lần thứ ba, người này gìn giữ phần của mình, đánh cắp phần không cho của người khác và thưởng thức phần ấy.
tatiyampi kho, vāseṭṭha, so satto sakaṃ bhāgaṃ parirakkhanto aññataraṃ bhāgaṃ adinnaṃ ādiyitvā paribhuñji.
Người ta bắt người này và nói:
Tamenaṃ aggahesuṃ, gahetvā etadavocuṃ:
Này Ngươi, Ngươi đã làm điều ác, vì Ngươi gìn giữ phần của mình, đánh cắp phần không cho của người khác và thưởng thức phần ấy.
‘pāpakaṃ vata, bho satta, karosi, yatra hi nāma sakaṃ bhāgaṃ parirakkhanto aññataraṃ bhāgaṃ adinnaṃ ādiyitvā paribhuñjasi.
Ngươi chớ có làm như vậy nữa.
Māssu, bho satta, punapi evarūpamakāsī’ti.
Có người đập anh ta bằng tay, có người đập anh ta bằng đá, có người đập anh ta bằng gậy.
Aññe pāṇinā pahariṃsu, aññe leḍḍunā pahariṃsu, aññe daṇḍena pahariṃsu.
Này Vāseṭṭha, bắt đầu như vậy, lấy của không cho xuất hiện, quở trách xuất hiện, nói láo xuất hiện, hình phạt đánh đập xuất hiện.
Tadagge kho, vāseṭṭha, adinnādānaṃ paññāyati, garahā paññāyati, musāvādo paññāyati, daṇḍādānaṃ paññāyati.
Này Vāseṭṭha, những loài hữu tình ấy hội họp lại và than khóc:
Atha kho te, vāseṭṭha, sattā sannipatiṃsu, sannipatitvā anutthuniṃsu:
Này Tôn giả, ác pháp đã khởi lên giữa các loài hữu tình, trong hình thức lấy của không cho xuất hiện, quở trách xuất hiện, nói láo xuất hiện, hình phạt xuất hiện.
‘pāpakā vata bho dhammā sattesu pātubhūtā, yatra hi nāma adinnādānaṃ paññāyissati, garahā paññāyissati, musāvādo paññāyissati, daṇḍādānaṃ paññāyissati.
Chúng ta hãy đề cử một người. Người ấy sẽ tức giận khi đáng phải tức giận, khiển trách khi đáng phải khiển trách, hay tẩn xuất khi đáng phải tẩn xuất?
Yannūna mayaṃ ekaṃ sattaṃ sammanneyyāma, yo no sammā khīyitabbaṃ khīyeyya, sammā garahitabbaṃ garaheyya, sammā pabbājetabbaṃ pabbājeyya.
Chúng tôi sẽ dành cho Người một phần lúa của chúng tôi.
Mayaṃ panassa sālīnaṃ bhāgaṃ anuppadassāmā’ti.
Rồi, những loài hữu tính ấy chọn người trong số họ là người hấp dẫn, dễ nhìn, đẹp đẽ, có tiếng tam, và nói:
Atha kho te, vāseṭṭha, sattā yo nesaṃ satto abhirūpataro ca dassanīyataro ca pāsādikataro ca mahesakkhataro ca taṃ sattaṃ upasaṅkamitvā etadavocuṃ:
Hãy đến đây, thiện hữu, hãy tức giận những kẻ đáng phải tức giận, khiển trách những kẻ đáng phải khiển trách, hay tẩn xuất những kẻ đáng phải tẩn xuất.
‘ehi, bho satta, sammā khīyitabbaṃ khīya, sammā garahitabbaṃ garaha, sammā pabbājetabbaṃ pabbājehi.
Chúng tôi sẽ dành cho Người một phần lúa của chúng tôi.
Mayaṃ pana te sālīnaṃ bhāgaṃ anuppadassāmā’ti.
Xin vâng, các Tôn giả! Này Vāseṭṭha, vị hữu tình này vâng theo các vị hữu tình kia, tức giận khi đáng tức giận, khiển trách khi đáng khiển trách, tẩn xuất khi đáng tẩn xuất.
‘Evaṃ, bho’ti kho, vāseṭṭha, so satto tesaṃ sattānaṃ paṭissuṇitvā sammā khīyitabbaṃ khīyi, sammā garahitabbaṃ garahi, sammā pabbājetabbaṃ pabbājesi.
Chúng tôi sẽ dành cho Người một phần lúa của chúng tôi.
Te panassa sālīnaṃ bhāgaṃ anuppadaṃsu.
Này Vāseṭṭha, được lựa chọn bởi đại chúng, tức là Mahā-sammato. Danh từ Mahā-sammato là danh từ đầu tiên được khởi lên.
Mahājanasammatoti kho, vāseṭṭha, ‘mahāsammato, mahāsammato’ tveva paṭhamaṃ akkharaṃ upanibbattaṃ.
Này Vāseṭṭha, “Vị chủ của ruộng vườn” tức là Khattiyā, là danh từ thứ hai được khởi lên “Làm cho các người khác hoan hỷ bởi Pháp”, tức là Rāja (vị vua). Rāja là danh từ thứ ba được khởi lên.
Khettānaṃ adhipatīti kho, vāseṭṭha, ‘khattiyo, khattiyo’ tveva dutiyaṃ akkharaṃ upanibbattaṃ. Dhammena pare rañjetīti kho, vāseṭṭha, ‘rājā, rājā’ tveva tatiyaṃ akkharaṃ upanibbattaṃ.
Này Vāseṭṭha, như vậy là sự khởi lên nguồn gốc giới vức xã hội của Khattiya theo danh từ truyền thống cổ xưa. Nguồn gốc của chúng ta ở giữa những loài hữu tình ấy, không ở ngoài loại nào khác, một cách đúng pháp tắc (dhamma), không phải phi pháp.
Iti kho, vāseṭṭha, evametassa khattiyamaṇḍalassa porāṇena aggaññena akkharena abhinibbatti ahosi tesaṃyeva sattānaṃ, anaññesaṃ. Sadisānaṃyeva, no asadisānaṃ. Dhammeneva, no adhammena.
Này Vāseṭṭha, như vậy Pháp là tối thượng ở đời, trong hiện tại và cả cho đời sau.
Dhammo hi, vāseṭṭha, seṭṭho janetasmiṃ diṭṭhe ceva dhamme abhisamparāyañca.
Này Vāseṭṭha, một số các vị hữu tình suy nghĩ:
Atha kho tesaṃ, vāseṭṭha, sattānaṃyeva ekaccānaṃ etadahosi:
Này các Tôn giả, các ác, bất thiện pháp đã hiện ra giữa các loại hữu tình, như lấy của không cho, khiển trách, nói láo, hình phạt, tẩn xuất.
‘pāpakā vata, bho, dhammā sattesu pātubhūtā, yatra hi nāma adinnādānaṃ paññāyissati, garahā paññāyissati, musāvādo paññāyissati, daṇḍādānaṃ paññāyissati, pabbājanaṃ paññāyissati.
Chúng ta hãy loại bỏ các ác, bất thiện pháp.
Yannūna mayaṃ pāpake akusale dhamme vāheyyāmā’ti.
Và họ loại bỏ các ác, bất thiện pháp.
Te pāpake akusale dhamme vāhesuṃ.
Các vị ấy loại bỏ các ác, bất thiện pháp, tức là Brāhmanā (Bà-la-môn), và chữ Brāhmanā là danh từ đầu tiên được khởi lên.
Pāpake akusale dhamme vāhentīti kho, vāseṭṭha, ‘brāhmaṇā, brāhmaṇā’ tveva paṭhamaṃ akkharaṃ upanibbattaṃ.
Những vị nầy lập lên những chòi bằng lá tại các khu rừng và tu thiền trong những nhà chòi bằng lá ấy. Ðối với họ, than đỏ được dập tắt, khói được tiêu tan, cối và chầy rơi ngả nghiêng, buổi chiều lo buổi ăn chiều, buổi sáng lo buổi ăn sáng; họ đi vào làng, vào thị xã, vào kinh đô để khất thực.
Te araññāyatane paṇṇakuṭiyo karitvā paṇṇakuṭīsu jhāyanti vītaṅgārā vītadhūmā pannamusalā sāyaṃ sāyamāsāya pāto pātarāsāya gāmanigamarājadhāniyo osaranti ghāsamesamānā.
Khi họ xin được đồ ăn rồi, họ lại vào các chòi lá trong các khu rừng để tu thiền.
Te ghāsaṃ paṭilabhitvā punadeva araññāyatane paṇṇakuṭīsu jhāyanti.
Các người khác thấy vậy, nói như sau:
Tamenaṃ manussā disvā evamāhaṃsu:
‘Này các Tôn giả, những loài hữu tình này lập lên những chòi bằng lá tại các khu rừng và tu thiền trong những chòi bằng lá ấy. Ðối với họ, than đỏ được dập tắt, khói được tiêu tan, cối và chầy rơi ngả nghiêng, buổi chiều lo ăn buổi ăn chiều, buổi sáng lo buổi ăn sáng; họ đi vào làng, vào thị xã, vào kinh đô để khất thực.
‘ime kho, bho, sattā araññāyatane paṇṇakuṭiyo karitvā paṇṇakuṭīsu jhāyanti, vītaṅgārā vītadhūmā pannamusalā sāyaṃ sāyamāsāya pāto pātarāsāya gāmanigamarājadhāniyo osaranti ghāsamesamānā.
Khi xin được đồ ăn rồi, họ lại vào các chòi lá trong khu rừng để tu thiền.
Te ghāsaṃ paṭilabhitvā punadeva araññāyatane paṇṇakuṭīsu jhāyantī’ti,
Này Vāseṭṭha, họ “Jhāyanti”, tu thiền, tức là họ suy tư Jhāyakā. Jhāyakā là danh từ thứ hai được khởi lên.
jhāyantīti kho, vāseṭṭha, ‘jhāyakā, jhāyakā’ tveva dutiyaṃ akkharaṃ upanibbattaṃ.
Này Vāseṭṭha,, một số loài hữu tình này, không thể tu thiền trong các chòi bằng lá tại khu rừng, liền đi xuống xung quanh làng, xuống xung quanh thị xã để làm sách.
Tesaṃyeva kho, vāseṭṭha, sattānaṃ ekacce sattā araññāyatane paṇṇakuṭīsu taṃ jhānaṃ anabhisambhuṇamānā gāmasāmantaṃ nigamasāmantaṃ osaritvā ganthe karontā acchanti.
Các người khác thấy vậy bèn nói:
Tamenaṃ manussā disvā evamāhaṃsu:
“Này các Tôn giả, những loài hữu tình này, không thể tu thiền trong các chòi bằng lá tại khu rừng, đã đi xuống xung quanh làng, xuống xung quanh thị xã để làm sách. Nay những vị này không tu thiền.”
‘ime kho, bho, sattā araññāyatane paṇṇakuṭīsu taṃ jhānaṃ anabhisambhuṇamānā gāmasāmantaṃ nigamasāmantaṃ osaritvā ganthe karontā acchanti, na dānime jhāyantī’ti.
Này Vāseṭṭha, “họ không tu thiền” tức là ajjhāyakā, và ajjhāyakā (các vị lập lại các tập sách Vedā), cũng có nghĩa là những người không tu thiền, là chữ thứ ba được khởi lên.
Na dānime jhāyantīti kho, vāseṭṭha, ‘ajjhāyakā, ajjhāyakā’ tveva tatiyaṃ akkharaṃ upanibbattaṃ.
Này Vāseṭṭha, thời ấy họ thuộc hạ cấp. Nay họ xem là cao thượng nhất.
Hīnasammataṃ kho pana, vāseṭṭha, tena samayena hoti, tadetarahi seṭṭhasammataṃ.
Như vậy, này Vāseṭṭha là sự khởi lên nguồn gốc giới vức xã hội của các Bà-la-môn, theo danh từ truyền thống cổ xưa. Nguồn gốc của họ là ở giữa những loài hữu tình ấy, không ở ngoài loại nào khác một cách đúng phép tắc, không phải phi pháp.
Iti kho, vāseṭṭha, evametassa brāhmaṇamaṇḍalassa porāṇena aggaññena akkharena abhinibbatti ahosi tesaṃyeva sattānaṃ, anaññesaṃ sadisānaṃyeva no asadisānaṃ dhammeneva, no adhammena.
Này Vāseṭṭha, như vậy Pháp là tối thượng ở đời, trong hiện tại và cả cho đời sau.
Dhammo hi, vāseṭṭha, seṭṭho janetasmiṃ diṭṭhe ceva dhamme abhisamparāyañca.
Này Vāseṭṭha, một số loài hữu tình này, theo pháp dâm dục, thiết lập các nghề nghiệp sai khác (Vissuta).
Tesaṃyeva kho, vāseṭṭha, sattānaṃ ekacce sattā methunaṃ dhammaṃ samādāya visukammante payojesuṃ.
Này Vāseṭṭha, những ai theo pháp dâm dục, thiết lập ra các nghề nghiệp sai khác, như vậy gọi là Vessā. Danh từ Vessā được khởi lên.
Methunaṃ dhammaṃ samādāya visukammante payojentīti kho, vāseṭṭha, ‘vessā, vessā’ tveva akkharaṃ upanibbattaṃ.
Như vậy, này Vāseṭṭha là sự khởi lên nguồn gốc giới vức xã hội của các Vessā, theo danh từ truyền thống cổ xưa. Nguồn gốc của họ là ở giữa các loài hữu tình ấy, không ở ngoài loại nào khác, một cách đúng phép tắc, không phải phi pháp.
Iti kho, vāseṭṭha, evametassa vessamaṇḍalassa porāṇena aggaññena akkharena abhinibbatti ahosi tesaññeva sattānaṃ anaññesaṃ sadisānaṃyeva, no asadisānaṃ, dhammeneva no adhammena.
Này Vāseṭṭha, như vậy Pháp là tối thượng ở đời, trong hiện tại và cả cho đời sau.
Dhammo hi, vāseṭṭha, seṭṭho janetasmiṃ diṭṭhe ceva dhamme abhisamparāyañca.
Này Vāseṭṭha, một số loài hữu tình còn lại lựa chọn săn bắn.
Tesaññeva kho, vāseṭṭha, sattānaṃ ye te sattā avasesā te luddācārā khuddācārā ahesuṃ.
Những ai sống săn bắn và theo các nghề hèn nhỏ, này Vāseṭṭha, được gọi là Suddā. Và danh từ Suddā được khởi lên.
Luddācārā khuddācārāti kho, vāseṭṭha, ‘suddā, suddā’ tveva akkharaṃ upanibbattaṃ.
Như vậy, này Vāseṭṭha, là sự khởi lên nguồn gốc giới vức xã hội của các Suddā, theo danh từ truyền thống cổ xưa. Nguồn gốc của chúng là ở giữa các loài hữu tình ấy, không ở ngoài loại nào khác, một cách đúng phép tắc, không phải phi pháp.
Iti kho, vāseṭṭha, evametassa suddamaṇḍalassa porāṇena aggaññena akkharena abhinibbatti ahosi tesaṃyeva sattānaṃ anaññesaṃ, sadisānaṃyeva no asadisānaṃ, dhammeneva, no adhammena.
Này Vāseṭṭha như vậy Pháp là tối thượng ở đời, trong hiện tại và cả cho đời sau.
Dhammo hi, vāseṭṭha, seṭṭho janetasmiṃ diṭṭhe ceva dhamme abhisamparāyañca.
Này Vāseṭṭha, một thời có vị Khattiya (Sát đế lỵ) tự trách pháp của mình, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình:
Ahu kho so, vāseṭṭha, samayo, yaṃ khattiyopi sakaṃ dhammaṃ garahamāno agārasmā anagāriyaṃ pabbajati:
“Tôi sẽ sống làm người Sa môn”.
‘samaṇo bhavissāmī’ti.
Vị Bà-la-môn, tự trách pháp của mình, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: “Tôi sẽ sống làm người Sa môn”.
Brāhmaṇopi kho, vāseṭṭha ...pe...
Vị Vessā, tự trách pháp của mình, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình: “Tôi sẽ sống làm người Sa môn”.
vessopi kho, vāseṭṭha ...pe...
Vị Suddā, tự trách pháp của mình, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình: “Tôi sẽ sống làm người Sa môn”.
suddopi kho, vāseṭṭha, sakaṃ dhammaṃ garahamāno agārasmā anagāriyaṃ pabbajati: ‘samaṇo bhavissāmī’ti.
Này Vāseṭṭha, giai cấp Samana (Sa môn) được khởi lên từ bốn giai cấp ấy. Nguồn gốc của Sa môn là ở giữa các loài hữu tình ấy, không ở ngoài loại nào khác, một cách đúng phép tắc, không phải phi pháp.
Imehi kho, vāseṭṭha, catūhi maṇḍalehi samaṇamaṇḍalassa abhinibbatti ahosi, tesaṃyeva sattānaṃ anaññesaṃ, sadisānaṃyeva no asadisānaṃ, dhammeneva no adhammena.
Này Vāseṭṭha, như vậy Pháp là tối thượng ở đời, trong hiện tại và cả cho đời sau.
Dhammo hi, vāseṭṭha, seṭṭho janetasmiṃ diṭṭhe ceva dhamme abhisamparāyañca.
Này Vāseṭṭha, vị Khattiya, làm tà hạnh về thân, làm tà hạnh về miệng, làm tà hạnh về ý, có tà kiến. Do tà kiến, tà nghiệp làm nhân duyên, sau khi thân hoại mạng chung sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Khattiyopi kho, vāseṭṭha, kāyena duccaritaṃ caritvā vācāya duccaritaṃ caritvā manasā duccaritaṃ caritvā micchādiṭṭhiko micchādiṭṭhikammasamādāno micchādiṭṭhikammasamādānahetu kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati.
Này Vāseṭṭha, vị Bà-la-môn ...
Brāhmaṇopi kho, vāseṭṭha ...pe...
Này Vāseṭṭha, vị Vessā ...
vessopi kho, vāseṭṭha ...
Này Vāseṭṭha, vị Suddā ...
suddopi kho, vāseṭṭha ...
Này Vāseṭṭha, làm tà hạnh về thân, làm tà hạnh về miệng, làm tà hạnh về ý, có tà kiến. Do tà kiến, tà nghiệp làm nhân duyên, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
samaṇopi kho, vāseṭṭha, kāyena duccaritaṃ caritvā vācāya duccaritaṃ caritvā manasā duccaritaṃ caritvā micchādiṭṭhiko micchādiṭṭhikammasamādāno micchādiṭṭhikammasamādānahetu kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati.
Này Vāseṭṭha, vị Khattiya làm chánh hạnh về thân, chánh hạnh về miệng, chánh hạnh về ý, có chánh kiến. Do chánh kiến, chánh nghiệp làm nhân duyên, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào thiện thú, Thiên giới.
Khattiyopi kho, vāseṭṭha, kāyena sucaritaṃ caritvā vācāya sucaritaṃ caritvā manasā sucaritaṃ caritvā sammādiṭṭhiko sammādiṭṭhikammasamādāno sammādiṭṭhikammasamādānahetu kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati.
Này Vāseṭṭha, vị Bà-la-môn...
Brāhmaṇopi kho, vāseṭṭha ...pe...
Này Vāseṭṭha, vị Sessā...
vessopi kho, vāseṭṭha ...
Này Vāseṭṭha, vị Suddā ...
suddopi kho, vāseṭṭha ...
Này Vāseṭṭha, làm chánh hạnh về thân, chánh hạnh về miệng, chánh hạnh về ý, có chánh kiến. Do chánh kiến, chánh nghiệp làm nhân duyên, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào thiện thú, Thiên giới.
samaṇopi kho, vāseṭṭha, kāyena sucaritaṃ caritvā vācāya sucaritaṃ caritvā manasā sucaritaṃ caritvā sammādiṭṭhiko sammādiṭṭhikammasamādāno sammādiṭṭhikammasamādānahetu kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati.
Này Vāseṭṭha, vị Khattiya, làm hai hạnh về thân, hai hạnh về miệng, hai hạnh về ý, có chánh kiến tà kiến lẫn lộn. Do chánh kiến tà kiến, chánh hạnh tà hạnh lẫn lộn làm nhân duyên, sau khi thân hoại mạng chung, thọ lãnh lạc và khổ thọ.
Khattiyopi kho, vāseṭṭha, kāyena dvayakārī, vācāya dvayakārī, manasā dvayakārī, vimissadiṭṭhiko vimissadiṭṭhikammasamādāno vimissadiṭṭhikammasamādānahetu kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sukhadukkhappaṭisaṃvedī hoti.
Này Vāseṭṭha, vị Bà-la-môn...
Brāhmaṇopi kho, vāseṭṭha ...pe...
Này Vāseṭṭha, vị Vessā...
vessopi kho, vāseṭṭha ...
Này Vāseṭṭha, vị Suddā,...
suddopi kho, vāseṭṭha ...
Này Vāseṭṭha, làm hai hạnh về thân, hai hạnh về miệng, hai hạnh về ý, có chánh kiến, có tà kiến lẫn lộn. Do chánh kiến tà kiến, chánh hạnh tà hạnh lẫn lộn làm nhân duyên, sau khi thân hoại mạng chung, thọ lãnh lạc và khổ thọ.
samaṇopi kho, vāseṭṭha, kāyena dvayakārī, vācāya dvayakārī, manasā dvayakārī, vimissadiṭṭhiko vimissadiṭṭhikammasamādāno vimissadiṭṭhikammasamādānahetu kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sukhadukkhappaṭisaṃvedī hoti.
Này Vāseṭṭha, vị Khattiya, chế ngự về thân, chế ngự về miệng, chế ngự về ý, sau khi tu tập Bảy pháp Giác chi đã diệt trừ hoàn toàn (các ác pháp) ngay trong đời hiện tại.
Khattiyopi kho, vāseṭṭha, kāyena saṃvuto vācāya saṃvuto manasā saṃvuto sattannaṃ bodhipakkhiyānaṃ dhammānaṃ bhāvanamanvāya diṭṭheva dhamme parinibbāyati.
Này Vāseṭṭha, vị Bà-la-môn...
Brāhmaṇopi kho, vāseṭṭha ...pe...
Này Vāseṭṭha, vị Vessā...
vessopi kho, vāseṭṭha ...
Này Vāseṭṭha, vị Suddā,...
suddopi kho, vāseṭṭha ...
Này Vāseṭṭha, chế ngự về thân, chế ngự về miệng, chế ngự về ý, sau khi tu tập Bảy pháp Giác chi đã diệt trừ hoàn toàn (các ác pháp) ngay trong đời hiện tại.
samaṇopi kho, vāseṭṭha, kāyena saṃvuto vācāya saṃvuto manasā saṃvuto sattannaṃ bodhipakkhiyānaṃ dhammānaṃ bhāvanamanvāya diṭṭheva dhamme parinibbāyati.
Này Vāseṭṭha, trong bốn giai cấp này, vị Tỷ kheo, là bậc A la hán, lậu hoặc đã diệt tận, việc phải làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, mục tiêu đã đạt tới, hữu kiết sử đã trừ diệt, chánh trí giải thoát. Vị ấy được gọi là tối thượng trong tất cả giai cấp, đúng với Chánh pháp, không phải phi pháp.
Imesañhi, vāseṭṭha, catunnaṃ vaṇṇānaṃ yo hoti bhikkhu arahaṃ khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṃyojano sammadaññāvimutto, so nesaṃ aggamakkhāyati dhammeneva, no adhammena.
Này Vāseṭṭha, như vậy Pháp là tối thượng ở đời, trong hiện tại và cho cả đời sau.
Dhammo hi, vāseṭṭha, seṭṭho janetasmiṃ diṭṭhe ceva dhamme abhisamparāyañca.
Này Vāseṭṭha, bài kệ sau đây được Phạm thiên Sanaṅkumāra (Thường Ðồng hình Phạm thiên) tuyên thuyết:
Brahmunā pesā, vāseṭṭha, sanaṅkumārena gāthā bhāsitā:
Chúng sanh tin giai cấp, Sát đế lỵ tối thắng. Ai đủ cả trí, đức, Tối thắng giữa Nhân, Thiên.
‘Khattiyo seṭṭho janetasmiṃ, ye gottapaṭisārino; Vijjācaraṇasampanno, so seṭṭho devamānuse’ti.
Này Vāseṭṭha, bài kệ này được Phạm thiên Sanaṅkumāra, khéo hát chớ không phải vụng hát, khéo nói chớ không phải vụng nói, đầy đủ ý nghĩa chớ không phải không đầy đủ, được Ta chấp nhận.
Sā kho panesā, vāseṭṭha, brahmunā sanaṅkumārena gāthā sugītā, no duggītā. Subhāsitā, no dubbhāsitā. Atthasaṃhitā, no anatthasaṃhitā. Anumatā mayā.
Này Vāseṭṭha, Ta cũng nói như sau:
Ahampi, vāseṭṭha, evaṃ vadāmi—
Chúng sanh tin giai cấp, Sát đế lỵ tối thắng. Ai đủ cả trí, đức, Tối thắng giữa Nhân, Thiên.
Khattiyo seṭṭho janetasmiṃ, ye gottapaṭisārino; Vijjācaraṇasampanno, so seṭṭho devamānuse”ti.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Idamavoca bhagavā.
Vāseṭṭha và Bhāradvāja hoan hỷ tín thọ lời giảng Thế Tôn.
Attamanā vāseṭṭhabhāradvājā bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Dứt bài kinh Khởi Thế Nhân Bổn
Aggaññasuttaṃ niṭṭhitaṃ catutthaṃ.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt