Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Khuddaka Nikāya - Tiểu Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Itivuttaka 76

Tiểu Bộ Kinh
Khuddaka Nikāya

Kinh Phật Thuyết Như Vậy
Itivuttaka

Iti 76
Sukhapatthanāsutta

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:
Vuttañhetaṃ bhagavatā vuttamarahatāti me sutaṃ:

Do hy vọng được ba lạc này, bậc Hiền trí hộ trì giới. Thế nào là ba? "Mong rằng lời tán thán sẽ đến với ta", bậc Hiền trí hộ trì giới. "Mong rằng, tài sản sẽ khởi lên cho ta", bậc Hiền trí hộ trì giới. "Mong rằng khi thân hoại mạng chung, ta sẽ sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này" bậc Hiền trí hộ trì giới.
“Tīṇimāni, bhikkhave, sukhāni patthayamāno sīlaṃ rakkheyya paṇḍito. Katamāni tīṇi? Pasaṃsā me āgacchatūti sīlaṃ rakkheyya paṇḍito, bhogā me uppajjantūti sīlaṃ rakkheyya paṇḍito, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjissāmīti sīlaṃ rakkheyya paṇḍito.

Này các Tỷ-kheo, do hy vọng được ba lạc này, bậc Hiền trí hộ trì giới.
Imāni kho, bhikkhave, tīṇi sukhāni patthayamāno sīlaṃ rakkheyya paṇḍito”ti.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, ý nghĩa này được nói đến.
Etamatthaṃ bhagavā avoca. Tatthetaṃ iti vuccati:

Bậc trí hộ trì giới,
Hy vọng được ba lạc,
Ðược khen, được tài sản,
Ðời sau sống hoan hỷ,
Trong cảnh giới chư Thiên.
“Sīlaṃ rakkheyya medhāvī,
patthayāno tayo sukhe;
Pasaṃsaṃ vittalābhañca,
pecca sagge pamodanaṃ.

Nếu không làm điều ác,
Nhưng theo kẻ làm ác,
Thì bị nghi làm ác,
Và bị tăng tiếng xấu.
Akarontopi ce pāpaṃ,
karontamupasevati;
Saṅkiyo hoti pāpasmiṃ,
avaṇṇo cassa rūhati.

Giống như người làm bạn,
Giống như người làm theo,
Người này giống người ấy
Giống như người cộng trú.
Yādisaṃ kurute mittaṃ,
yādisaṃ cūpasevati;
Sa ve tādisako hoti,
sahavāso hi tādiso.

Người theo, người được theo,
Xúc chạm, được xúc chạm,
Như cây tên nhiễm độc
Nhiễm bó tên chưa nhiễm,
Bậc Trí vì sợ nhiễm,
Nên không bạn kẻ ác.
Sevamāno sevamānaṃ,
samphuṭṭho samphusaṃ paraṃ;
Saro diddho kalāpaṃva,
alittamupalimpati;
Upalepabhayā dhīro,
neva pāpasakhā siyā.

Với ngọn cỏ kusa,
Dùng gói đồ cá thúi,
Kusa hay mùi thúi,
Cũng vậy, gần kẻ ngu.
Pūtimacchaṃ kusaggena,
yo naro upanayhati;
Kusāpi pūti vāyanti,
evaṃ bālūpasevanā.

Còn người dùng ngọn lá,
Gói hương Ta-ga-ra,
Ngọn lá bay mùi thơm
Cũng vậy, gần bậc Trí.
Tagarañca palāsena,
yo naro upanayhati;
Pattāpi surabhi vāyanti,
evaṃ dhīrūpasevanā.

Do vậy, nhờ nghĩ đến
Cái giỏ bằng lá ấy,
Biết được những cái gì
Sẽ rơi vào tự mình,
Bậc Hiền trí không theo,
Những hạng người bất thiện,
Chỉ biết làm bạn thân,
Những người lành hiền thiện.
Tasmā pattapuṭasseva,
ñatvā sampākamattano;
Asante nupaseveyya,
sante seveyya paṇḍito;

Những kẻ ác, bất thiện,
Dắt dẫn đến địa ngục,
Còn những kẻ tốt lành,
Ðạt đến cảnh thiện thú.
Asanto nirayaṃ nenti,
santo pāpenti suggatin”ti.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.
Ayampi attho vutto bhagavatā, iti me sutanti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt