Tiểu Bộ Kinh
Khuddaka Nikāya
Kinh Phật Thuyết Như Vậy
Itivuttaka
Iti 83
Pañcapubbanimittasutta
Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:
Vuttañhetaṃ bhagavatā vuttamarahatāti me sutaṃ:
Này các Tỷ-kheo, khi nào một Thiên nhân mệnh chung từ bỏ thân chư Thiên, có năm tướng xuất hiện ra trước: "Các vòng hoa héo úa, áo quần bị uế nhiễm, mồ hôi chảy ra từ nách, thân sắc trở thành xấu xí, Thiên nhân không hoan hỷ tại chỗ ngồi chư Thiên".
“Yadā, bhikkhave, devo devakāyā cavanadhammo hoti, pañcassa pubbanimittāni pātubhavanti—mālā milāyanti, vatthāni kilissanti, kacchehi sedā muccanti, kāye dubbaṇṇiyaṃ okkamati, sake devo devāsane nābhiramatīti.
Này các Tỷ-kheo, chư Thiên sau khi biết Thiên tử này mệnh chung, nói ba lời để cổ vũ: "Từ đây, Hiền giả hãy đi đến cõi lành!
Tamenaṃ, bhikkhave, devā ‘cavanadhammo ayaṃ devaputto’ti iti viditvā tīhi vācāhi anumodenti: ‘ito, bho, sugatiṃ gaccha.
Sau khi đi đến cõi lành, hãy nhận được những gì khéo nhận được.
Sugatiṃ gantvā suladdhalābhaṃ labha.
Sau khi nhận được những gì khéo nhận, hãy khéo an trú".
Suladdhalābhaṃ labhitvā suppatiṭṭhito bhavāhī’”ti.
Ðược nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, thế nào được gọi là đi đến cõi lành của chư Thiên?
Evaṃ vutte, aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca: “kiṃ nu kho, bhante, devānaṃ sugatigamanasaṅkhātaṃ.
Bạch Thế Tôn, thế nào được gọi là nhận được những gì khéo nhận được của chư Thiên?
Kiñca, bhante, devānaṃ suladdhalābhasaṅkhātaṃ.
Bạch Thế Tôn, thế nào được gọi là khéo an trú của chư Thiên?
Kiṃ pana, bhante, devānaṃ suppatiṭṭhitasaṅkhātan”ti?
- Này các Tỷ-kheo, được địa vị làm người được gọi là đi đến cõi lành của chư Thiên.
“Manussattaṃ kho, bhikkhu, devānaṃ sugatigamanasaṅkhātaṃ.
Khi được địa vị làm người, được lòng tin trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, này các Tỷ-kheo, đây được gọi là nhận được những gì khéo nhận được của chư Thiên.
Yaṃ manussabhūto samāno tathāgatappavedite dhammavinaye saddhaṃ paṭilabhati; idaṃ kho, bhikkhu, devānaṃ suladdhalābhasaṅkhātaṃ.
Khi lòng tin được nhập vào, được an trú thành gốc rễ, kiên trì, không bị làm tan nát bởi Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên nhân, Ác ma, Phạm thiên hay bất cứ ai ở đời thì được gọi là khéo an trú của chư Thiên.
Sā kho panassa saddhā niviṭṭhā hoti mūlajātā patiṭṭhitā daḷhā asaṃhāriyā samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmiṃ; idaṃ kho, bhikkhu, devānaṃ suppatiṭṭhitasaṅkhātan”ti.
Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.
Etamatthaṃ bhagavā avoca. Tatthetaṃ iti vuccati:
Khi nào vị Thiên nhân,
Từ bỏ thân chư Thiên,
Vì thọ mạng đã hết,
Ba tiếng được thốt lên,
Do chư Thiên an ủi,
Cổ vũ khiến hoan hỷ.
“Yadā devo devakāyā,
cavati āyusaṅkhayā;
Tayo saddā niccharanti,
devānaṃ anumodataṃ.
Từ đây, này Hiền giả,
Hãy đi đến cõi lành,
Cộng trú với loài Người.
Khi đã được làm người,
Trong Chánh pháp vi diệu,
Hãy lấy được lòng tin,
Lòng tin ấy vô thượng.
‘Ito bho sugatiṃ gaccha,
manussānaṃ sahabyataṃ;
Manussabhūto saddhamme,
labha saddhaṃ anuttaraṃ.
Hiền giả hãy thâm nhập,
Vào trong lòng tin ấy,
An trú thành gốc rễ,
Cho đến trọn sanh mạng,
Không bị làm tan nát,
Trong điệu pháp khéo giảng.
Sā te saddhā niviṭṭhassa,
mūlajātā patiṭṭhitā;
Yāvajīvaṃ asaṃhīrā,
saddhamme suppavedite.
Từ bỏ thân làm ác,
Từ bỏ lời nói ác,
Từ bỏ ý nghĩ ác,
Và mọi hành động khác,
Ðược xem là thuộc ác.
Kāyaduccaritaṃ hitvā,
vacīduccaritāni ca;
Manoduccaritaṃ hitvā,
yañcaññaṃ dosasañhitaṃ.
Thân làm các hạnh lành,
Làm nhiều lời nói lành,
Sau khi ý nghĩ lành,
Vô lượng, không sanh y.
Kāyena kusalaṃ katvā,
vācāya kusalaṃ bahuṃ;
Manasā kusalaṃ katvā,
appamāṇaṃ nirūpadhiṃ.
Rồi làm các công đức
Cho sanh y đời sau
Làm xong nhiều công đức
Với bố thí rộng rãi,
Rồi an trú người khác,
Bị tử vong chi phối,
Trong đời sống Phạm hạnh,
Trong Chánh pháp vi diệu.
Tato opadhikaṃ puññaṃ,
katvā dānena taṃ bahuṃ;
Aññepi macce saddhamme,
brahmacariye nivesaya’.
Với lòng từ mẫn này,
Chư Thiên khi biết được.
Một Thiên nhân mệnh chung,
Liền nói lời cổ vũ.
Thiên nhân hãy đến đây,
Hãy đến lại nhiều lần.
Imāya anukampāya,
devā devaṃ yadā vidū;
Cavantaṃ anumodenti,
ehi deva punappunan”ti.
Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.
Ayampi attho vutto bhagavatā, iti me sutanti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt