Trung Bộ 1
Majjhima Nikāya 1
Kinh Pháp Môn Căn Bản
Mūlapariyāya Sutta
Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ
Một thời Thế Tôn trú tại (tụ lạc) Ukkattha, trong rừng Subhaga (rừng Hạnh phúc), dưới gốc cây Sa-la vương.
ekaṃ samayaṃ bhagavā ukkaṭṭhāyaṃ viharati subhagavane sālarājamūle.
Tại chỗ ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi:
“Này các Tỷ-kheo!”
“bhikkhavo”ti.
– “Bạch Thế Tôn”, những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
“Bhadante”ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
Thế Tôn nói:
Bhagavā etadavoca:
“Này các Tỷ-kheo. Ta sẽ giảng cho các Người “Pháp môn căn bản tất cả pháp”.
“sabbadhammamūlapariyāyaṃ vo, bhikkhave, desessāmi.
Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói”.
Taṃ suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha, bhāsissāmī”ti.
– “Thưa vâng, bạch Thế Tôn”, những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
“Evaṃ, bhante”ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
Thế Tôn nói như sau:
Bhagavā etadavoca:
Này các Tỷ-kheo, ở đây, có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chơn nhân, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhân, không tu tập pháp các bậc Chơn nhân,
“Idha, bhikkhave, assutavā puthujjano ariyānaṃ adassāvī ariyadhammassa akovido ariyadhamme avinīto, sappurisānaṃ adassāvī sappurisadhammassa akovido sappurisadhamme avinīto—
tưởng tri địa đại là địa đại.
pathaviṃ pathavito sañjānāti;
Vì tưởng tri địa đại là địa đại, người ấy nghĩ đến địa đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, người ấy nghĩ: “Ðịa đại là của ta” – dục hỷ địa đại.
pathaviṃ pathavito saññatvā pathaviṃ maññati, pathaviyā maññati, pathavito maññati, pathaviṃ meti maññati, pathaviṃ abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri địa đại.
‘Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri thủy đại là thủy đại.
Āpaṃ āpato sañjānāti;
Vì tưởng tri thủy đại là thủy đại, người ấy nghĩ đến thủy đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với thủy đại, nghĩ đến (tự ngã) như là thủy đại, người ấy nghĩ: “Thủy đại là của ta” – dục hỷ thủy đại.
āpaṃ āpato saññatvā āpaṃ maññati, āpasmiṃ maññati, āpato maññati, āpaṃ meti maññati, āpaṃ abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri thủy đại.
‘Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri hỏa đại là hỏa đại.
Tejaṃ tejato sañjānāti;
Vì tưởng tri hỏa đại là hỏa đại, người ấy nghĩ đến hỏa đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với hỏa đại, nghĩ đến (tự ngã) như là hỏa đại, người ấy nghĩ: “Hỏa đại là của ta”- dục hỷ hỏa đại.
tejaṃ tejato saññatvā tejaṃ maññati, tejasmiṃ maññati, tejato maññati, tejaṃ meti maññati, tejaṃ abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri hỏa đại.
‘Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri phong đại là phong đại.
Vāyaṃ vāyato sañjānāti;
Vì tưởng tri phong đại là phong đại, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với phong đại, nghĩ đến (tự ngã) như là phong đại, người ấy nghĩ: “Phong đại là của ta”- dục hỷ phong đại.
vāyaṃ vāyato saññatvā vāyaṃ maññati, vāyasmiṃ maññati, vāyato maññati, vāyaṃ meti maññati, vāyaṃ abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri phong đại.
‘Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri Sanh vật là Sanh vật…
Bhūte bhūtato sañjānāti;
Vì tưởng tri Sanh vật là Sanh vật, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Sanh vật, nghĩ đến (tự ngã) như là Sanh vật, người ấy nghĩ: “Sanh vật là của ta”- dục hỷ Sanh vật.
bhūte bhūtato saññatvā bhūte maññati, bhūtesu maññati, bhūtato maññati, bhūte meti maññati, bhūte abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri Sanh vật.
‘Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri chư Thiên là chư Thiên.
Deve devato sañjānāti;
Vì tưởng tri chư Thiên là chư Thiên, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với chư Thiên, nghĩ đến (tự ngã) như là chư Thiên, người ấy nghĩ: “chư Thiên là của ta”- dục hỷ chư Thiên.
deve devato saññatvā deve maññati, devesu maññati, devato maññati, deve meti maññati, deve abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri chư Thiên.
‘Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri Sanh chủ là Sanh chủ.
Pajāpatiṃ pajāpatito sañjānāti;
Vì tưởng tri Sanh chủ là Sanh chủ, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Sanh chủ, nghĩ đến (tự ngã) như là Sanh chủ, người ấy nghĩ: “Sanh chủ là của ta”- dục hỷ Sanh chủ.
pajāpatiṃ pajāpatito saññatvā pajāpatiṃ maññati, pajāpatismiṃ maññati, pajāpatito maññati, pajāpatiṃ meti maññati, pajāpatiṃ abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri Sanh chủ.
‘Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri Phạm thiên là Phạm thiên.
Brahmaṃ brahmato sañjānāti;
Vì tưởng tri Phạm thiên là Phạm thiên, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Phạm thiên, nghĩ đến (tự ngã) như là Phạm thiên, người ấy nghĩ: “Phạm thiên là của ta”- dục hỷ Phạm thiên.
brahmaṃ brahmato saññatvā brahmaṃ maññati, brahmasmiṃ maññati, brahmato maññati, brahmaṃ meti maññati, brahmaṃ abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri Phạm thiên.
‘Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri Quang âm thiên là Quang âm thiên.
Ābhassare ābhassarato sañjānāti;
Vì tưởng tri Quang âm thiên là Quang âm thiên, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Quang âm thiên, nghĩ đến (tự ngã) như là Quang âm thiên, người ấy nghĩ: “Quang âm thiên là của ta”- dục hỷ Quang âm thiên.
ābhassare ābhassarato saññatvā ābhassare maññati, ābhassaresu maññati, ābhassarato maññati, ābhassare meti maññati, ābhassare abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri Quang âm thiên.
Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri Biến tịnh thiên là Biến tịnh thiên.
Subhakiṇhe subhakiṇhato sañjānāti;
Vì tưởng tri Biến tịnh thiên là Biến tịnh thiên, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Biến tịnh thiên, nghĩ đến (tự ngã) như là Biến tịnh thiên, người ấy nghĩ: “Biến tịnh thiên là của ta”- dục hỷ Biến tịnh thiên.
subhakiṇhe subhakiṇhato saññatvā subhakiṇhe maññati, subhakiṇhesu maññati, subhakiṇhato maññati, subhakiṇhe meti maññati, subhakiṇhe abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri Biến tịnh thiên.
Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri Quảng quả thiên là Quảng quả thiên.
Vehapphale vehapphalato sañjānāti;
Vì tưởng tri Quảng quả thiên là Quảng quả thiên, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Quảng quả thiên, nghĩ đến (tự ngã) như là Quảng quả thiên, người ấy nghĩ: “Quảng quả thiên là của ta”- dục hỷ Quảng quả thiên.
vehapphale vehapphalato saññatvā vehapphale maññati, vehapphalesu maññati, vehapphalato maññati, vehapphale meti maññati, vehapphale abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri Quảng quả thiên.
‘Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri Abhibū (Thắng Giả) là Abhibū.
Abhibhuṃ abhibhuto sañjānāti;
Vì tưởng tri Abhibū (Thắng Giả) là Abhibū (Thắng Giả), người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Abhibū (Thắng Giả), nghĩ đến (tự ngã) như là Abhibū (Thắng Giả), người ấy nghĩ: “Abhibū (Thắng Giả) là của ta”- dục hỷ Abhibū (Thắng Giả).
abhibhuṃ abhibhuto saññatvā abhibhuṃ maññati, abhibhusmiṃ maññati, abhibhuto maññati, abhibhuṃ meti maññati, abhibhuṃ abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri Abhibū (Thắng Giả).
‘Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri Không vô biên xứ là Không vô biên xứ.
Ākāsānañcāyatanaṃ ākāsānañcāyatanato sañjānāti;
Vì tưởng tri Không vô biên xứ là Không vô biên xứ, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Không vô biên xứ, nghĩ đến (tự ngã) như là Không vô biên xứ, người ấy nghĩ: “Không vô biên xứ là của ta”- dục hỷ Không vô biên xứ.
ākāsānañcāyatanaṃ ākāsānañcāyatanato saññatvā ākāsānañcāyatanaṃ maññati, ākāsānañcāyatanasmiṃ maññati, ākāsānañcāyatanato maññati, ākāsānañcāyatanaṃ meti maññati, ākāsānañcāyatanaṃ abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri Không vô biên xứ.
‘Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri Thức vô biên xứ là Thức vô biên xứ.
Viññāṇañcāyatanaṃ viññāṇañcāyatanato sañjānāti;
Vì tưởng tri Thức vô biên xứ là Thức vô biên xứ, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Thức vô biên xứ, nghĩ đến (tự ngã) như là Thức vô biên xứ, người ấy nghĩ: “Thức vô biên xứ là của ta”- dục hỷ Thức vô biên xứ.
viññāṇañcāyatanaṃ viññāṇañcāyatanato saññatvā viññāṇañcāyatanaṃ maññati, viññāṇañcāyatanasmiṃ maññati, viññāṇañcāyatanato maññati, viññāṇañcāyatanaṃ meti maññati, viññāṇañcāyatanaṃ abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri Thức vô biên xứ.
‘Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri Vô sở hữu xứ là Vô sở hữu xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato sañjānāti;
Vì tưởng tri Vô sở hữu xứ là Vô sở hữu xứ, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Vô sở hữu xứ, nghĩ đến (tự ngã) như là Vô sở hữu xứ, người ấy nghĩ: “Vô sở hữu xứ là của ta”- dục hỷ Vô sở hữu xứ.
ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato saññatvā ākiñcaññāyatanaṃ maññati, ākiñcaññāyatanasmiṃ maññati, ākiñcaññāyatanato maññati, ākiñcaññāyatanaṃ meti maññati, ākiñcaññāyatanaṃ abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri Vô sở hữu xứ.
‘Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri Phi tưởng phi phi tưởng xứ là Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Nevasaññānāsaññāyatanaṃ nevasaññānāsaññāyatanato sañjānāti;
Vì tưởng tri Phi tưởng phi phi tưởng xứ là Phi tưởng phi phi tưởng xứ, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nghĩ đến (tự ngã) như là Phi tưởng phi phi tưởng xứ, người ấy nghĩ: “Phi tưởng phi phi tưởng xứ là của ta”- dục hỷ Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
nevasaññānāsaññāyatanaṃ nevasaññānāsaññāyatanato saññatvā nevasaññānāsaññāyatanaṃ maññati, nevasaññānāsaññāyatanasmiṃ maññati, nevasaññānāsaññāyatanato maññati, nevasaññānāsaññāyatanaṃ meti maññati, nevasaññānāsaññāyatanaṃ abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
‘Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri sở kiến là sở kiến.
Diṭṭhaṃ diṭṭhato sañjānāti;
Vì tưởng tri sở kiến là sở kiến, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với sở kiến, nghĩ đến (tự ngã) như là sở kiến, người ấy nghĩ: “sở kiến là của ta”- dục hỷ sở kiến.
diṭṭhaṃ diṭṭhato saññatvā diṭṭhaṃ maññati, diṭṭhasmiṃ maññati, diṭṭhato maññati, diṭṭhaṃ meti maññati, diṭṭhaṃ abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri sở kiến.
Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri sở văn là sở văn.
Sutaṃ sutato sañjānāti;
Vì tưởng tri sở văn là sở văn, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với sở văn, nghĩ đến (tự ngã) như là sở văn, người ấy nghĩ: “sở văn là của ta”- dục hỷ sở văn.
sutaṃ sutato saññatvā sutaṃ maññati, sutasmiṃ maññati, sutato maññati, sutaṃ meti maññati, sutaṃ abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri sở văn.
‘Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri sở tư niệm là sở tư niệm.
Mutaṃ mutato sañjānāti;
Vì tưởng tri sở tư niệm là sở tư niệm, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với sở tư niệm, nghĩ đến (tự ngã) như là sở tư niệm, người ấy nghĩ: “sở tư niệm là của ta”- dục hỷ sở tư niệm.
mutaṃ mutato saññatvā mutaṃ maññati, mutasmiṃ maññati, mutato maññati, mutaṃ meti maññati, mutaṃ abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri sở tư niệm.
‘Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri sở tri là sở tri.
Viññātaṃ viññātato sañjānāti;
Vì tưởng tri sở tri là sở tri, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với sở tri, nghĩ đến (tự ngã) như là sở tri, người ấy nghĩ: “sở tri là của ta”- dục hỷ sở tri.
viññātaṃ viññātato saññatvā viññātaṃ maññati, viññātasmiṃ maññati, viññātato maññati, viññātaṃ meti maññati, viññātaṃ abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri sở tri.
Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri đồng nhất là đồng nhất.
Ekattaṃ ekattato sañjānāti;
Vì tưởng tri đồng nhất là đồng nhất, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với đồng nhất, nghĩ đến (tự ngã) như là đồng nhất, người ấy nghĩ: “đồng nhất là của ta”- dục hỷ đồng nhất.
ekattaṃ ekattato saññatvā ekattaṃ maññati, ekattasmiṃ maññati, ekattato maññati, ekattaṃ meti maññati, ekattaṃ abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri đồng nhất.
‘Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri sai biệt là sai biệt.
Nānattaṃ nānattato sañjānāti;
Vì tưởng tri sai biệt là sai biệt, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với sai biệt, nghĩ đến (tự ngã) như là sai biệt, người ấy nghĩ: “sai biệt là của ta”- dục hỷ sai biệt.
nānattaṃ nānattato saññatvā nānattaṃ maññati, nānattasmiṃ maññati, nānattato maññati, nānattaṃ meti maññati, nānattaṃ abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri sai biệt.
‘Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri tất cả là tất cả.
Sabbaṃ sabbato sañjānāti;
Vì tưởng tri tất cả là tất cả, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với tất cả, nghĩ đến (tự ngã) như là tất cả, người ấy nghĩ: “tất cả là của ta”- dục hỷ tất cả.
sabbaṃ sabbato saññatvā sabbaṃ maññati, sabbasmiṃ maññati, sabbato maññati, sabbaṃ meti maññati, sabbaṃ abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói người ấy không liễu tri tất cả.
‘Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Người ấy tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn.
Nibbānaṃ nibbānato sañjānāti;
Vì tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn, người ấy nghĩ đến Niết-bàn, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn. Nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, người ấy nghĩ: “Niết-bàn là của ta” – dục hỷ Niết-bàn.
nibbānaṃ nibbānato saññatvā nibbānaṃ maññati, nibbānasmiṃ maññati, nibbānato maññati, nibbānaṃ meti maññati, nibbānaṃ abhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói Người ấy không liễu tri Niết-bàn.
‘Apariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
1. Vị hữu học
Puthujjanavasena paṭhamanayabhūmiparicchedo niṭṭhito
Này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo, hữu học tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng an ổn khỏi khổ ách. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại.
Yopi so, bhikkhave, bhikkhu sekkho appattamānaso anuttaraṃ yogakkhemaṃ patthayamāno viharati, sopi pathaviṃ pathavito abhijānāti;
Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy đã không nghĩ đến địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) như là địa đại, đã không nghĩ: “Ðịa đại là của ta”, – không dục hỷ địa đại.
pathaviṃ pathavito abhiññāya pathaviṃ mā maññi, pathaviyā mā maññi, pathavito mā maññi, pathaviṃ meti mā maññi, pathaviṃ mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri địa đại.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri thuỷ đại là thuỷ đại.
Āpaṃ āpato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri thủy đại, vị ấy đã không nghĩ đến thuỷ đại, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với thuỷ đại, đã không nghĩ (tự ngã) như là thuỷ đại, đã không nghĩ: “Thuỷ đại là của ta”, – không dục hỷ thuỷ đại.
Āpaṃ āpato abhiññāya āpaṃ mā maññi, āpasmiṃ mā maññi, āpato mā maññi, āpaṃ meti mā maññi, āpaṃ mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri thuỷ đại.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri hỏa đại là hoả đại.
Tejaṃ tejato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri hoả đại, vị ấy đã không nghĩ đến hoả đại, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với hoả đại, đã không nghĩ (tự ngã) như là hoả đại, đã không nghĩ: “Hoả đại là của ta”, – không dục hỷ hoả đại.
Tejaṃ tejato abhiññāya tejaṃ mā maññi, tejasmiṃ mā maññi, tejato mā maññi, tejaṃ meti mā maññi, tejaṃ mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri hoả đại.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri phong đại là phong đại.
Vāyaṃ vāyato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri phong đại, vị ấy đã không nghĩ đến phong đại, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phong đại, đã không nghĩ (tự ngã) như là phong đại, đã không nghĩ: “Phong đại là của ta”, – không dục hỷ phong đại.
Vāyaṃ vāyato abhiññāya vāyaṃ mā maññi, vāyasmiṃ mā maññi, vāyato mā maññi, vāyaṃ meti mā maññi, vāyaṃ mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri phong đại.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri sanh vật là sanh vật.
Bhūte bhūtato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sanh vật, vị ấy đã không nghĩ đến sanh vật, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sanh vật, đã không nghĩ (tự ngã) như là sanh vật, đã không nghĩ: “Sanh vật là của ta”, – không dục hỷ sanh vật.
Bhūte bhūtato abhiññāya bhūte mā maññi, bhūtesu mā maññi, bhūtato mā maññi, bhūte meti mā maññi, bhūte mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri sanh vật.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri chư thiên là chư thiên.
Deve devato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri chư thiên, vị ấy đã không nghĩ đến chư thiên, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với chư thiên, đã không nghĩ (tự ngã) như là chư thiên, đã không nghĩ: “Chư thiên là của ta”, – không dục hỷ chư thiên.
Deve devato abhiññāya deve mā maññi, devesu mā maññi, devato mā maññi, deve meti mā maññi, deve mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri chư thiên.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri sanh chủ là sanh chủ.
Pajāpatiṃ pajāpatito abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sanh chủ, vị ấy đã không nghĩ đến sanh chủ, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sanh chủ, đã không nghĩ (tự ngã) như là sanh chủ, đã không nghĩ: “Sanh chủ là của ta”, – không dục hỷ sanh chủ.
Pajāpatiṃ pajāpatito abhiññāya pajāpatiṃ mā maññi, pajāpatismiṃ mā maññi, pajāpatito mā maññi, pajāpatiṃ meti mā maññi, pajāpatiṃ mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri sanh chủ.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri phạm thiên là phạm thiên.
Brahmaṃ brahmato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri phạm thiên, vị ấy đã không nghĩ đến phạm thiên, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phạm thiên, đã không nghĩ (tự ngã) như là phạm thiên, đã không nghĩ: “Phạm thiên là của ta”, – không dục hỷ phạm thiên.
Brahmaṃ brahmato abhiññāya brahmaṃ mā maññi, brahmasmiṃ mā maññi, brahmato mā maññi, brahmaṃ meti mā maññi, brahmaṃ mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri phạm thiên.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri quang âm thiên là quang âm thiên.
Ābhassare ābhassarato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri quang âm thiên, vị ấy đã không nghĩ đến quang âm thiên, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với quang âm thiên, đã không nghĩ (tự ngã) như là quang âm thiên, đã không nghĩ: “Quang âm thiên là của ta”, – không dục hỷ quang âm thiên.
Ābhassare ābhassarato abhiññāya ābhassare mā maññi, ābhassaresu mā maññi, ābhassarato mā maññi, ābhassare meti mā maññi, ābhassare mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri quang âm thiên.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri biến tịnh thiên là biến tịnh thiên.
Subhakiṇhe subhakiṇhato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri biến tịnh thiên, vị ấy đã không nghĩ đến biến tịnh thiên, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với biến tịnh thiên, đã không nghĩ (tự ngã) như là biến tịnh thiên, đã không nghĩ: “biến tịnh thiên là của ta”, – không dục hỷ biến tịnh thiên.
Subhakiṇhe subhakiṇhato abhiññāya subhakiṇhe mā maññi, subhakiṇhesu mā maññi, subhakiṇhato mā maññi, subhakiṇhe meti mā maññi, subhakiṇhe mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri biến tịnh thiên.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri quảng quả thiên là quảng quả thiên.
Vehapphale vehapphalato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri quảng quả thiên, vị ấy đã không nghĩ đến quảng quả thiên, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với quảng quả thiên, đã không nghĩ (tự ngã) như là quảng quả thiên, đã không nghĩ: “quảng quả thiên là của ta”, – không dục hỷ quảng quả thiên.
Vehapphale vehapphalato abhiññāya vehapphale mā maññi, vehapphalesu mā maññi, vehapphalato mā maññi, vehapphale meti mā maññi, vehapphale mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri quảng quả thiên.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri Abhibū (Thắng Giả) là Abhibū (Thắng Giả).
Abhibhuṃ abhibhuto abhijānāti.
Vị ấy thắng tri Abhibū (Thắng Giả), vị ấy đã không nghĩ đến Abhibū (Thắng Giả), đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Abhibū (Thắng Giả), đã không nghĩ (tự ngã) như là Abhibū (Thắng Giả), đã không nghĩ: “Abhibū (Thắng Giả) là của ta”, – không dục hỷ Abhibū (Thắng Giả).
Abhibhuṃ abhibhuto abhiññāya abhibhuṃ mā maññi, abhibhusmiṃ mā maññi, abhibhuto mā maññi, abhibhuṃ meti mā maññi, abhibhuṃ mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri Abhibū (Thắng Giả).
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri không vô biên xứ là không vô biên xứ.
Ākāsānañcāyatanaṃ ākāsānañcāyatanato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri không vô biên xứ, vị ấy đã không nghĩ đến không vô biên xứ, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với không vô biên xứ, đã không nghĩ (tự ngã) như là không vô biên xứ, đã không nghĩ: “không vô biên xứ là của ta”, – không dục hỷ không vô biên xứ.
Ākāsānañcāyatanaṃ ākāsānañcāyatanato abhiññāya ākāsānañcāyatanaṃ mā maññi, ākāsānañcāyatanasmiṃ mā maññi, ākāsānañcāyatanato mā maññi, ākāsānañcāyatanaṃ meti mā maññi, ākāsānañcāyatanaṃ mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri không vô biên xứ.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri thức vô biên xứ là thức vô biên xứ.
Viññāṇañcāyatanaṃ viññāṇañcāyatanato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri thức vô biên xứ, vị ấy đã không nghĩ đến thức vô biên xứ, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với thức vô biên xứ, đã không nghĩ (tự ngã) như là thức vô biên xứ, đã không nghĩ: “thức vô biên xứ là của ta”, – không dục hỷ thức vô biên xứ.
Viññāṇañcāyatanaṃ viññāṇañcāyatanato abhiññāya viññāṇañcāyatanaṃ mā maññi, viññāṇañcāyatanasmiṃ mā maññi, viññāṇañcāyatanato mā maññi, viññāṇañcāyatanaṃ meti mā maññi, viññāṇañcāyatanaṃ mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri thức vô biên xứ.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri vô sở hữu xứ là vô sở hữu xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri vô sở hữu xứ , vị ấy đã không nghĩ đến vô sở hữu xứ , đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với vô sở hữu xứ , đã không nghĩ (tự ngã) như là vô sở hữu xứ , đã không nghĩ: “vô sở hữu xứ là của ta”, – không dục hỷ vô sở hữu xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhiññāya ākiñcaññāyatanaṃ mā maññi, ākiñcaññāyatanasmiṃ mā maññi, ākiñcaññāyatanato mā maññi, ākiñcaññāyatanaṃ meti mā maññi, ākiñcaññāyatanaṃ mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri vô sở hữu xứ.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri phi tưởng phi phi tưởng xứ là phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri phi tưởng phi phi tưởng xứ, vị ấy đã không nghĩ đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phi tưởng phi phi tưởng xứ, đã không nghĩ (tự ngã) như là phi tưởng phi phi tưởng xứ, đã không nghĩ: “phi tưởng phi phi tưởng xứ là của ta”, – không dục hỷ phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Nevasaññānāsaññāyatanaṃ nevasaññānāsaññāyatanato abhiññāya nevasaññānāsaññāyatanaṃ mā maññi, nevasaññānāsaññāyatanasmiṃ mā maññi, nevasaññānāsaññāyatanato mā maññi, nevasaññānāsaññāyatanaṃ meti mā maññi, nevasaññānāsaññāyatanaṃ mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri phi tưởng phi phi tưởng xứ.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri sở kiến là sở kiến.
Diṭṭhaṃ diṭṭhato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sở kiến, vị ấy đã không nghĩ đến sở kiến, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở kiến, đã không nghĩ (tự ngã) như là sở kiến, đã không nghĩ: “sở kiến là của ta”, – không dục hỷ sở kiến.
Diṭṭhaṃ diṭṭhato abhiññāya diṭṭhaṃ mā maññi, diṭṭhasmiṃ mā maññi, diṭṭhato mā maññi, diṭṭhaṃ meti mā maññi, diṭṭhaṃ mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri sở kiến.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri sở văn là sở văn.
Sutaṃ sutato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sở văn, vị ấy đã không nghĩ đến sở văn, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở văn, đã không nghĩ (tự ngã) như là sở văn, đã không nghĩ: “sở văn là của ta”, – không dục hỷ sở văn.
Sutaṃ sutato abhiññāya sutaṃ mā maññi, sutasmiṃ mā maññi, sutato mā maññi, sutaṃ meti mā maññi, sutaṃ mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri sở văn.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri sở tư niệm là sở tư niệm.
Mutaṃ mutato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sở tư niệm, vị ấy đã không nghĩ đến sở tư niệm, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở tư niệm, đã không nghĩ (tự ngã) như là sở tư niệm, đã không nghĩ: “sở tư niệm là của ta”, – không dục hỷ sở tư niệm.
Mutaṃ mutato abhiññāya mutaṃ mā maññi, mutasmiṃ mā maññi, mutato mā maññi, mutaṃ meti mā maññi, mutaṃ mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri sở tư niệm.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri sở tri là sở tri.
Viññātaṃ viññātato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sở tri, vị ấy đã không nghĩ đến sở tri, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở tri, đã không nghĩ (tự ngã) như là sở tri, đã không nghĩ: “sở tri là của ta”, – không dục hỷ sở tri.
Viññātaṃ viññātato abhiññāya viññātaṃ mā maññi, viññātasmiṃ mā maññi, viññātato mā maññi, viññātaṃ meti mā maññi, viññātaṃ mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri sở tri.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri đồng nhất là đồng nhất.
Ekattaṃ ekattato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri đồng nhất, vị ấy đã không nghĩ đến đồng nhất, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với đồng nhất, đã không nghĩ (tự ngã) như là đồng nhất, đã không nghĩ: “đồng nhất là của ta”, – không dục hỷ đồng nhất.
Ekattaṃ ekattato abhiññāya ekattaṃ mā maññi, ekattasmiṃ mā maññi, ekattato mā maññi, ekattaṃ meti mā maññi, ekattaṃ mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri đồng nhất.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri sai biệt là sai biệt.
Nānattaṃ nānattato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sai biệt, vị ấy đã không nghĩ đến sai biệt, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sai biệt, đã không nghĩ (tự ngã) như là sai biệt, đã không nghĩ: “sai biệt là của ta”, – không dục hỷ sai biệt.
Nānattaṃ nānattato abhiññāya nānattaṃ mā maññi, nānattasmiṃ mā maññi, nānattato mā maññi, nānattaṃ meti mā maññi, nānattaṃ mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri sai biệt.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri tất cả là tất cả.
Sabbaṃ sabbato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri tất cả, vị ấy đã không nghĩ đến tất cả, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với tất cả, đã không nghĩ (tự ngã) như là tất cả, đã không nghĩ: “tất cả là của ta”, – không dục hỷ tất cả.
Sabbaṃ sabbato abhiññāya sabbaṃ mā maññi, sabbasmiṃ mā maññi, sabbato mā maññi, sabbaṃ meti mā maññi, sabbaṃ mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri tất cả.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn;
nibbānaṃ nibbānato abhijānāti;
vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy đã không nghĩ đến Niết-bàn, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, đã không nghĩ (tự ngã) như là Niết-bàn, đã không nghĩ: “Niết-bàn là của ta” – không dục hỷ Niết-bàn.
nibbānaṃ nibbānato abhiññāya nibbānaṃ mā maññi, nibbānasmiṃ mā maññi, nibbānato mā maññi, nibbānaṃ meti mā maññi, nibbānaṃ mābhinandi.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy có thể liễu tri Niết Bàn.
‘Pariññeyyaṃ tassā’ti vadāmi.
2. Bậc A-La-Hán-I
Sekkhavasena dutiyanayabhūmiparicchedo niṭṭhito
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại.
Yopi so, bhikkhave, bhikkhu arahaṃ khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṃyojano sammadaññāvimutto, sopi pathaviṃ pathavito abhijānāti;
Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: “Ðịa đại là của ta” – không dục hỷ địa đại.
pathaviṃ pathavito abhiññāya pathaviṃ na maññati, pathaviyā na maññati, pathavito na maññati, pathaviṃ meti na maññati, pathaviṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri địa đại.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri thuỷ đại là thuỷ đại.
Āpaṃ āpato abhijānāti;
Vị ấy thắng tri thủy đại, vị ấy không nghĩ đến thuỷ đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với thuỷ đại, không nghĩ (tự ngã) như là thuỷ đại, không nghĩ: “Thuỷ đại là của ta”, – không dục hỷ thuỷ đại.
āpaṃ āpato abhiññāya āpaṃ na maññati, āpasmiṃ na maññati, āpato na maññati, āpaṃ meti na maññati, āpaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri thuỷ đại.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri hỏa đại là hoả đại.
Tejaṃ tejato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri hoả đại, vị ấy không nghĩ đến hoả đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với hoả đại, không nghĩ (tự ngã) như là hoả đại, không nghĩ: “Hoả đại là của ta”, – không dục hỷ hoả đại.
Tejaṃ tejato abhiññāya tejaṃ na maññati, tejasmiṃ na maññati, tejato na maññati, tejaṃ meti na maññati, tejaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri hoả đại.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri phong đại là phong đại.
Vāyaṃ vāyato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri phong đại, vị ấy không nghĩ đến phong đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phong đại, không nghĩ (tự ngã) như là phong đại, không nghĩ: “Phong đại là của ta”, – không dục hỷ phong đại.
Vāyaṃ vāyato abhiññāya vāyaṃ na maññati, vāyasmiṃ na maññati, vāyato na maññati, vāyaṃ meti na maññati, vāyaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri phong đại.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri sanh vật là sanh vật.
Bhūte bhūtato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sanh vật, vị ấy không nghĩ đến sanh vật, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sanh vật, không nghĩ (tự ngã) như là sanh vật, đã không nghĩ: “Sanh vật là của ta”, – không dục hỷ sanh vật.
Bhūte bhūtato abhiññāya bhūte na maññati, bhūtesu na maññati, bhūtato na maññati, bhūte meti na maññati, bhūte nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri sanh vật.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri chư thiên là chư thiên.
Deve devato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri chư thiên, vị ấy không nghĩ đến chư thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với chư thiên, không nghĩ (tự ngã) như là chư thiên, không nghĩ: “Chư thiên là của ta”, – không dục hỷ chư thiên.
Deve devato abhiññāya deve na maññati, devesu na maññati, devato na maññati, deve meti na maññati, deve nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri chư thiên.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri sanh chủ là sanh chủ.
Pajāpatiṃ pajāpatito abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sanh chủ, vị ấy không nghĩ đến sanh chủ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sanh chủ, không nghĩ (tự ngã) như là sanh chủ, không nghĩ: “Sanh chủ là của ta”, – không dục hỷ sanh chủ.
Pajāpatiṃ pajāpatito abhiññāya pajāpatiṃ na maññati, pajāpatismiṃ na maññati, pajāpatito na maññati, pajāpatiṃ meti na maññati, pajāpatiṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri sanh chủ.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri phạm thiên là phạm thiên.
Brahmaṃ brahmato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri phạm thiên, vị ấy không nghĩ đến phạm thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phạm thiên, không nghĩ (tự ngã) như là phạm thiên, không nghĩ: “Phạm thiên là của ta”, – không dục hỷ phạm thiên.
Brahmaṃ brahmato abhiññāya brahmaṃ na maññati, brahmasmiṃ na maññati, brahmato na maññati, brahmaṃ meti na maññati, brahmaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri phạm thiên.
Ābhassare ābhassarato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri quang âm thiên, vị ấy không nghĩ đến quang âm thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với quang âm thiên, không nghĩ (tự ngã) như là quang âm thiên, không nghĩ: “Quang âm thiên là của ta”, – không dục hỷ quang âm thiên.
Ābhassare ābhassarato abhiññāya ābhassare na maññati, ābhassaresu na maññati, ābhassarato na maññati, ābhassare meti na maññati, ābhassare nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri quang âm thiên.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri biến tịnh thiên là biến tịnh thiên.
Subhakiṇhe subhakiṇhato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri biến tịnh thiên, vị ấy không nghĩ đến biến tịnh thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với biến tịnh thiên, không nghĩ (tự ngã) như là biến tịnh thiên, không nghĩ: “biến tịnh thiên là của ta”, – không dục hỷ biến tịnh thiên.
Subhakiṇhe subhakiṇhato abhiññāya subhakiṇhe na maññati, subhakiṇhesu na maññati, subhakiṇhato na maññati, subhakiṇhe meti na maññati, subhakiṇhe nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri biến tịnh thiên.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri quảng quả thiên là quảng quả thiên.
Vehapphale vehapphalato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri quảng quả thiên, vị ấy không nghĩ đến quảng quả thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với quảng quả thiên, không nghĩ (tự ngã) như là quảng quả thiên, không nghĩ: “quảng quả thiên là của ta”, – không dục hỷ quảng quả thiên.
Vehapphale vehapphalato abhiññāya vehapphale na maññati, vehapphalesu na maññati, vehapphalato na maññati, vehapphale meti na maññati, vehapphale nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri quảng quả thiên.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri Abhibū (Thắng Giả) là Abhibū (Thắng Giả).
Abhibhuṃ abhibhuto abhijānāti.
Vị ấy thắng tri Abhibū (Thắng Giả), vị ấy không nghĩ đến Abhibū (Thắng Giả), không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Abhibū (Thắng Giả), không nghĩ (tự ngã) như là Abhibū (Thắng Giả), không nghĩ: “Abhibū (Thắng Giả) là của ta”, – không dục hỷ Abhibū (Thắng Giả).
Abhibhuṃ abhibhuto abhiññāya abhibhuṃ na maññati, abhibhusmiṃ na maññati, abhibhuto na maññati, abhibhuṃ meti na maññati, abhibhuṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri Abhibū (Thắng Giả).
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri không vô biên xứ là không vô biên xứ.
Ākāsānañcāyatanaṃ ākāsānañcāyatanato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri không vô biên xứ, vị ấy không nghĩ đến không vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với không vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) như là không vô biên xứ, không nghĩ: “không vô biên xứ là của ta”, – không dục hỷ không vô biên xứ.
Ākāsānañcāyatanaṃ ākāsānañcāyatanato abhiññāya ākāsānañcāyatanaṃ na maññati, ākāsānañcāyatanasmiṃ na maññati, ākāsānañcāyatanato na maññati, ākāsānañcāyatanaṃ meti na maññati, ākāsānañcāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri không vô biên xứ.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri thức vô biên xứ là thức vô biên xứ.
Viññāṇañcāyatanaṃ viññāṇañcāyatanato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri thức vô biên xứ, vị ấy không nghĩ đến thức vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với thức vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) như là thức vô biên xứ, không nghĩ: “thức vô biên xứ là của ta”, – không dục hỷ thức vô biên xứ.
Viññāṇañcāyatanaṃ viññāṇañcāyatanato abhiññāya viññāṇañcāyatanaṃ na maññati, viññāṇañcāyatanasmiṃ na maññati, viññāṇañcāyatanato na maññati, viññāṇañcāyatanaṃ meti na maññati, viññāṇañcāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri thức vô biên xứ.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri vô sở hữu xứ là vô sở hữu xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri vô sở hữu xứ , vị ấy không nghĩ đến vô sở hữu xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với vô sở hữu xứ, không nghĩ (tự ngã) như là vô sở hữu xứ, không nghĩ: “vô sở hữu xứ là của ta”, – không dục hỷ vô sở hữu xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhiññāya ākiñcaññāyatanaṃ na maññati, ākiñcaññāyatanasmiṃ na maññati, ākiñcaññāyatanato na maññati, ākiñcaññāyatanaṃ meti na maññati, ākiñcaññāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri vô sở hữu xứ.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri phi tưởng phi phi tưởng xứ là phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri phi tưởng phi phi tưởng xứ, vị ấy không nghĩ đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phi tưởng phi phi tưởng xứ, không nghĩ (tự ngã) như là phi tưởng phi phi tưởng xứ, không nghĩ: “phi tưởng phi phi tưởng xứ là của ta”, – không dục hỷ phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Nevasaññānāsaññāyatanaṃ nevasaññānāsaññāyatanato abhiññāya nevasaññānāsaññāyatanaṃ na maññati, nevasaññānāsaññāyatanasmiṃ na maññati, nevasaññānāsaññāyatanato na maññati, nevasaññānāsaññāyatanaṃ meti na maññati, nevasaññānāsaññāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri phi tưởng phi phi tưởng xứ.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri sở kiến là sở kiến.
Diṭṭhaṃ diṭṭhato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sở kiến, vị ấy không nghĩ đến sở kiến, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở kiến, không nghĩ (tự ngã) như là sở kiến, không nghĩ: “sở kiến là của ta”, – không dục hỷ sở kiến.
Diṭṭhaṃ diṭṭhato abhiññāya diṭṭhaṃ na maññati, diṭṭhasmiṃ na maññati, diṭṭhato na maññati, diṭṭhaṃ meti na maññati, diṭṭhaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri sở kiến.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri sở văn là sở văn.
Sutaṃ sutato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sở văn, vị ấy không nghĩ đến sở văn, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở văn, không nghĩ (tự ngã) như là sở văn, không nghĩ: “sở văn là của ta”, – không dục hỷ sở văn.
Sutaṃ sutato abhiññāya sutaṃ na maññati, sutasmiṃ na maññati, sutato na maññati, sutaṃ meti na maññati, sutaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri sở văn.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri sở tư niệm là sở tư niệm.
Mutaṃ mutato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sở tư niệm, vị ấy không nghĩ đến sở tư niệm, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở tư niệm, không nghĩ (tự ngã) như là sở tư niệm, không nghĩ: “sở tư niệm là của ta”, – không dục hỷ sở tư niệm.
Mutaṃ mutato abhiññāya mutaṃ na maññati, mutasmiṃ na maññati, mutato na maññati, mutaṃ meti na maññati, mutaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri sở tư niệm.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri sở tri là sở tri.
Viññātaṃ viññātato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sở tri, vị ấy không nghĩ đến sở tri, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở tri, không nghĩ (tự ngã) như là sở tri, không nghĩ: “sở tri là của ta”, – không dục hỷ sở tri.
Viññātaṃ viññātato abhiññāya viññātaṃ na maññati, viññātasmiṃ na maññati, viññātato na maññati, viññātaṃ meti na maññati, viññātaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri sở tri.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri đồng nhất là đồng nhất.
Ekattaṃ ekattato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri đồng nhất, vị ấy không nghĩ đến đồng nhất, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với đồng nhất, không nghĩ (tự ngã) như là đồng nhất, không nghĩ: “đồng nhất là của ta”, – không dục hỷ đồng nhất.
Ekattaṃ ekattato abhiññāya ekattaṃ na maññati, ekattasmiṃ na maññati, ekattato na maññati, ekattaṃ meti na maññati, ekattaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri đồng nhất.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri sai biệt là sai biệt.
Nānattaṃ nānattato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sai biệt, vị ấy không nghĩ đến sai biệt, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sai biệt, không nghĩ (tự ngã) như là sai biệt, không nghĩ: “sai biệt là của ta”, – không dục hỷ sai biệt.
Nānattaṃ nānattato abhiññāya nānattaṃ na maññati, nānattasmiṃ na maññati, nānattato na maññati, nānattaṃ meti na maññati, nānattaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri sai biệt.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri tất cả là tất cả.
Sabbaṃ sabbato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri tất cả, vị ấy không nghĩ đến tất cả, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với tất cả, không nghĩ (tự ngã) như là tất cả, không nghĩ: “tất cả là của ta”, – không dục hỷ tất cả.
Sabbaṃ sabbato abhiññāya sabbaṃ na maññati, sabbasmiṃ na maññati, sabbato na maññati, sabbaṃ meti na maññati, sabbaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri tất cả.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn;
nibbānaṃ nibbānato abhijānāti;
Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: “Niết-bàn là của ta” – không dục hỷ Niết-bàn.
nibbānaṃ nibbānato abhiññāya nibbānaṃ na maññati, nibbānasmiṃ na maññati, nibbānato na maññati, nibbānaṃ meti na maññati, nibbānaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vị ấy đã liễu tri Niết Bàn.
‘Pariññātaṃ tassā’ti vadāmi.
3. Bậc A-La-Hán-II
Khīṇāsavavasena tatiyanayabhūmiparicchedo niṭṭhito
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại.
Yopi so, bhikkhave, bhikkhu arahaṃ khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṃyojano sammadaññā vimutto, sopi pathaviṃ pathavito abhijānāti;
Vì thắng trí địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: “Ðịa đại là của ta” – không dục hỷ địa đại.
pathaviṃ pathavito abhiññāya pathaviṃ na maññati, pathaviyā na maññati, pathavito na maññati, pathaviṃ meti na maññati, pathaviṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri thuỷ đại là thuỷ đại.
Āpaṃ āpato abhijānāti;
Vị ấy thắng tri thủy đại, vị ấy không nghĩ đến thuỷ đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với thuỷ đại, không nghĩ (tự ngã) như là thuỷ đại, không nghĩ: “Thuỷ đại là của ta”, – không dục hỷ thuỷ đại.
āpaṃ āpato abhiññāya āpaṃ na maññati, āpasmiṃ na maññati, āpato na maññati, āpaṃ meti na maññati, āpaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri hỏa đại là hoả đại.
Tejaṃ tejato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri hoả đại, vị ấy không nghĩ đến hoả đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với hoả đại, không nghĩ (tự ngã) như là hoả đại, không nghĩ: “Hoả đại là của ta”, – không dục hỷ hoả đại.
Tejaṃ tejato abhiññāya tejaṃ na maññati, tejasmiṃ na maññati, tejato na maññati, tejaṃ meti na maññati, tejaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri phong đại là phong đại.
Vāyaṃ vāyato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri phong đại, vị ấy không nghĩ đến phong đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phong đại, không nghĩ (tự ngã) như là phong đại, không nghĩ: “Phong đại là của ta”, – không dục hỷ phong đại.
Vāyaṃ vāyato abhiññāya vāyaṃ na maññati, vāyasmiṃ na maññati, vāyato na maññati, vāyaṃ meti na maññati, vāyaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri sanh vật là sanh vật.
Bhūte bhūtato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sanh vật, vị ấy không nghĩ đến sanh vật, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sanh vật, không nghĩ (tự ngã) như là sanh vật, đã không nghĩ: “Sanh vật là của ta”, – không dục hỷ sanh vật.
Bhūte bhūtato abhiññāya bhūte na maññati, bhūtesu na maññati, bhūtato na maññati, bhūte meti na maññati, bhūte nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri chư thiên là chư thiên.
Deve devato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri chư thiên, vị ấy không nghĩ đến chư thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với chư thiên, không nghĩ (tự ngã) như là chư thiên, không nghĩ: “Chư thiên là của ta”, – không dục hỷ chư thiên.
Deve devato abhiññāya deve na maññati, devesu na maññati, devato na maññati, deve meti na maññati, deve nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri sanh chủ là sanh chủ.
Pajāpatiṃ pajāpatito abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sanh chủ, vị ấy không nghĩ đến sanh chủ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sanh chủ, không nghĩ (tự ngã) như là sanh chủ, không nghĩ: “Sanh chủ là của ta”, – không dục hỷ sanh chủ.
Pajāpatiṃ pajāpatito abhiññāya pajāpatiṃ na maññati, pajāpatismiṃ na maññati, pajāpatito na maññati, pajāpatiṃ meti na maññati, pajāpatiṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri phạm thiên là phạm thiên.
Brahmaṃ brahmato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri phạm thiên, vị ấy không nghĩ đến phạm thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phạm thiên, không nghĩ (tự ngã) như là phạm thiên, không nghĩ: “Phạm thiên là của ta”, – không dục hỷ phạm thiên.
Brahmaṃ brahmato abhiññāya brahmaṃ na maññati, brahmasmiṃ na maññati, brahmato na maññati, brahmaṃ meti na maññati, brahmaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri quang âm thiên là quang âm thiên.
Ābhassare ābhassarato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri quang âm thiên, vị ấy không nghĩ đến quang âm thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với quang âm thiên, không nghĩ (tự ngã) như là quang âm thiên, không nghĩ: “Quang âm thiên là của ta”, – không dục hỷ quang âm thiên.
Ābhassare ābhassarato abhiññāya ābhassare na maññati, ābhassaresu na maññati, ābhassarato na maññati, ābhassare meti na maññati, ābhassare nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri biến tịnh thiên là biến tịnh thiên.
Subhakiṇhe subhakiṇhato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri biến tịnh thiên, vị ấy không nghĩ đến biến tịnh thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với biến tịnh thiên, không nghĩ (tự ngã) như là biến tịnh thiên, không nghĩ: “biến tịnh thiên là của ta”, – không dục hỷ biến tịnh thiên.
Subhakiṇhe subhakiṇhato abhiññāya subhakiṇhe na maññati, subhakiṇhesu na maññati, subhakiṇhato na maññati, subhakiṇhe meti na maññati, subhakiṇhe nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri quảng quả thiên là quảng quả thiên.
Vehapphale vehapphalato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri quảng quả thiên, vị ấy không nghĩ đến quảng quả thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với quảng quả thiên, không nghĩ (tự ngã) như là quảng quả thiên, không nghĩ: “quảng quả thiên là của ta”, – không dục hỷ quảng quả thiên.
Vehapphale vehapphalato abhiññāya vehapphale na maññati, vehapphalesu na maññati, vehapphalato na maññati, vehapphale meti na maññati, vehapphale nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri Abhibū (Thắng Giả) là Abhibū (Thắng Giả).
Abhibhuṃ abhibhuto abhijānāti.
Vị ấy thắng tri Abhibū (Thắng Giả), vị ấy không nghĩ đến Abhibū (Thắng Giả), không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Abhibū (Thắng Giả), không nghĩ (tự ngã) như là Abhibū (Thắng Giả), không nghĩ: “Abhibū (Thắng Giả) là của ta”, – không dục hỷ Abhibū (Thắng Giả).
Abhibhuṃ abhibhuto abhiññāya abhibhuṃ na maññati, abhibhusmiṃ na maññati, abhibhuto na maññati, abhibhuṃ meti na maññati, abhibhuṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri không vô biên xứ là không vô biên xứ.
Ākāsānañcāyatanaṃ ākāsānañcāyatanato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri không vô biên xứ, vị ấy không nghĩ đến không vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với không vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) như là không vô biên xứ, không nghĩ: “không vô biên xứ là của ta”, – không dục hỷ không vô biên xứ.
Ākāsānañcāyatanaṃ ākāsānañcāyatanato abhiññāya ākāsānañcāyatanaṃ na maññati, ākāsānañcāyatanasmiṃ na maññati, ākāsānañcāyatanato na maññati, ākāsānañcāyatanaṃ meti na maññati, ākāsānañcāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri thức vô biên xứ là thức vô biên xứ.
Viññāṇañcāyatanaṃ viññāṇañcāyatanato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri thức vô biên xứ, vị ấy không nghĩ đến thức vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với thức vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) như là thức vô biên xứ, không nghĩ: “thức vô biên xứ là của ta”, – không dục hỷ thức vô biên xứ.
Viññāṇañcāyatanaṃ viññāṇañcāyatanato abhiññāya viññāṇañcāyatanaṃ na maññati, viññāṇañcāyatanasmiṃ na maññati, viññāṇañcāyatanato na maññati, viññāṇañcāyatanaṃ meti na maññati, viññāṇañcāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri vô sở hữu xứ là vô sở hữu xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri vô sở hữu xứ , vị ấy không nghĩ đến vô sở hữu xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với vô sở hữu xứ, không nghĩ (tự ngã) như là vô sở hữu xứ, không nghĩ: “vô sở hữu xứ là của ta”, – không dục hỷ vô sở hữu xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhiññāya ākiñcaññāyatanaṃ na maññati, ākiñcaññāyatanasmiṃ na maññati, ākiñcaññāyatanato na maññati, ākiñcaññāyatanaṃ meti na maññati, ākiñcaññāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri phi tưởng phi phi tưởng xứ là phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri phi tưởng phi phi tưởng xứ, vị ấy không nghĩ đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phi tưởng phi phi tưởng xứ, không nghĩ (tự ngã) như là phi tưởng phi phi tưởng xứ, không nghĩ: “phi tưởng phi phi tưởng xứ là của ta”, – không dục hỷ phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Nevasaññānāsaññāyatanaṃ nevasaññānāsaññāyatanato abhiññāya nevasaññānāsaññāyatanaṃ na maññati, nevasaññānāsaññāyatanasmiṃ na maññati, nevasaññānāsaññāyatanato na maññati, nevasaññānāsaññāyatanaṃ meti na maññati, nevasaññānāsaññāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri sở kiến là sở kiến.
Diṭṭhaṃ diṭṭhato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sở kiến, vị ấy không nghĩ đến sở kiến, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở kiến, không nghĩ (tự ngã) như là sở kiến, không nghĩ: “sở kiến là của ta”, – không dục hỷ sở kiến.
Diṭṭhaṃ diṭṭhato abhiññāya diṭṭhaṃ na maññati, diṭṭhasmiṃ na maññati, diṭṭhato na maññati, diṭṭhaṃ meti na maññati, diṭṭhaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri sở văn là sở văn.
Sutaṃ sutato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sở văn, vị ấy không nghĩ đến sở văn, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở văn, không nghĩ (tự ngã) như là sở văn, không nghĩ: “sở văn là của ta”, – không dục hỷ sở văn.
Sutaṃ sutato abhiññāya sutaṃ na maññati, sutasmiṃ na maññati, sutato na maññati, sutaṃ meti na maññati, sutaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri sở tư niệm là sở tư niệm.
Mutaṃ mutato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sở tư niệm, vị ấy không nghĩ đến sở tư niệm, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở tư niệm, không nghĩ (tự ngã) như là sở tư niệm, không nghĩ: “sở tư niệm là của ta”, – không dục hỷ sở tư niệm.
Mutaṃ mutato abhiññāya mutaṃ na maññati, mutasmiṃ na maññati, mutato na maññati, mutaṃ meti na maññati, mutaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri sở tri là sở tri.
Viññātaṃ viññātato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sở tri, vị ấy không nghĩ đến sở tri, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở tri, không nghĩ (tự ngã) như là sở tri, không nghĩ: “sở tri là của ta”, – không dục hỷ sở tri.
Viññātaṃ viññātato abhiññāya viññātaṃ na maññati, viññātasmiṃ na maññati, viññātato na maññati, viññātaṃ meti na maññati, viññātaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri đồng nhất là đồng nhất.
Ekattaṃ ekattato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri đồng nhất, vị ấy không nghĩ đến đồng nhất, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với đồng nhất, không nghĩ (tự ngã) như là đồng nhất, không nghĩ: “đồng nhất là của ta”, – không dục hỷ đồng nhất.
Ekattaṃ ekattato abhiññāya ekattaṃ na maññati, ekattasmiṃ na maññati, ekattato na maññati, ekattaṃ meti na maññati, ekattaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri sai biệt là sai biệt.
Nānattaṃ nānattato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sai biệt, vị ấy không nghĩ đến sai biệt, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sai biệt, không nghĩ (tự ngã) như là sai biệt, không nghĩ: “sai biệt là của ta”, – không dục hỷ sai biệt.
Nānattaṃ nānattato abhiññāya nānattaṃ na maññati, nānattasmiṃ na maññati, nānattato na maññati, nānattaṃ meti na maññati, nānattaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri tất cả là tất cả.
Sabbaṃ sabbato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri tất cả, vị ấy không nghĩ đến tất cả, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với tất cả, không nghĩ (tự ngã) như là tất cả, không nghĩ: “tất cả là của ta”, – không dục hỷ tất cả.
Sabbaṃ sabbato abhiññāya sabbaṃ na maññati, sabbasmiṃ na maññati, sabbato na maññati, sabbaṃ meti na maññati, sabbaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn;
nibbānaṃ nibbānato abhijānāti;
vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy đã không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: “Niết-bàn là của ta” – không dục hỷ Niết-bàn.
nibbānaṃ nibbānato abhiññāya nibbānaṃ na maññati, nibbānasmiṃ na maññati, nibbānato na maññati, nibbānaṃ meti na maññati, nibbānaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Khayā rāgassa, vītarāgattā.
4. Bậc A-La-Hán-III
Khīṇāsavavasena catutthanayabhūmiparicchedo niṭṭhito
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại.
Yopi so, bhikkhave, bhikkhu arahaṃ khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṃyojano sammadaññāvimutto, sopi pathaviṃ pathavito abhijānāti;
Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: “Ðịa đại là của ta” – không dục hỷ địa đại.
pathaviṃ pathavito abhiññāya pathaviṃ na maññati, pathaviyā na maññati, pathavito na maññati, pathaviṃ meti na maññati, pathaviṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri thuỷ đại là thuỷ đại.
Āpaṃ āpato abhijānāti;
Vị ấy thắng tri thủy đại, vị ấy không nghĩ đến thuỷ đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với thuỷ đại, không nghĩ (tự ngã) như là thuỷ đại, không nghĩ: “Thuỷ đại là của ta”, – không dục hỷ thuỷ đại.
āpaṃ āpato abhiññāya āpaṃ na maññati, āpasmiṃ na maññati, āpato na maññati, āpaṃ meti na maññati, āpaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri hỏa đại là hoả đại.
Tejaṃ tejato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri hoả đại, vị ấy không nghĩ đến hoả đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với hoả đại, không nghĩ (tự ngã) như là hoả đại, không nghĩ: “Hoả đại là của ta”, – không dục hỷ hoả đại.
Tejaṃ tejato abhiññāya tejaṃ na maññati, tejasmiṃ na maññati, tejato na maññati, tejaṃ meti na maññati, tejaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri phong đại là phong đại.
Vāyaṃ vāyato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri phong đại, vị ấy không nghĩ đến phong đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phong đại, không nghĩ (tự ngã) như là phong đại, không nghĩ: “Phong đại là của ta”, – không dục hỷ phong đại.
Vāyaṃ vāyato abhiññāya vāyaṃ na maññati, vāyasmiṃ na maññati, vāyato na maññati, vāyaṃ meti na maññati, vāyaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri sanh vật là sanh vật.
Bhūte bhūtato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sanh vật, vị ấy không nghĩ đến sanh vật, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sanh vật, không nghĩ (tự ngã) như là sanh vật, đã không nghĩ: “Sanh vật là của ta”, – không dục hỷ sanh vật.
Bhūte bhūtato abhiññāya bhūte na maññati, bhūtesu na maññati, bhūtato na maññati, bhūte meti na maññati, bhūte nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri chư thiên là chư thiên.
Deve devato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri chư thiên, vị ấy không nghĩ đến chư thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với chư thiên, không nghĩ (tự ngã) như là chư thiên, không nghĩ: “Chư thiên là của ta”, – không dục hỷ chư thiên.
Deve devato abhiññāya deve na maññati, devesu na maññati, devato na maññati, deve meti na maññati, deve nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri sanh chủ là sanh chủ.
Pajāpatiṃ pajāpatito abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sanh chủ, vị ấy không nghĩ đến sanh chủ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sanh chủ, không nghĩ (tự ngã) như là sanh chủ, không nghĩ: “Sanh chủ là của ta”, – không dục hỷ sanh chủ.
Pajāpatiṃ pajāpatito abhiññāya pajāpatiṃ na maññati, pajāpatismiṃ na maññati, pajāpatito na maññati, pajāpatiṃ meti na maññati, pajāpatiṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri phạm thiên là phạm thiên.
Brahmaṃ brahmato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri phạm thiên, vị ấy không nghĩ đến phạm thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phạm thiên, không nghĩ (tự ngã) như là phạm thiên, không nghĩ: “Phạm thiên là của ta”, – không dục hỷ phạm thiên.
Brahmaṃ brahmato abhiññāya brahmaṃ na maññati, brahmasmiṃ na maññati, brahmato na maññati, brahmaṃ meti na maññati, brahmaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri quang âm thiên là quang âm thiên.
Ābhassare ābhassarato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri quang âm thiên, vị ấy không nghĩ đến quang âm thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với quang âm thiên, không nghĩ (tự ngã) như là quang âm thiên, không nghĩ: “Quang âm thiên là của ta”, – không dục hỷ quang âm thiên.
Ābhassare ābhassarato abhiññāya ābhassare na maññati, ābhassaresu na maññati, ābhassarato na maññati, ābhassare meti na maññati, ābhassare nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri biến tịnh thiên là biến tịnh thiên.
Subhakiṇhe subhakiṇhato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri biến tịnh thiên, vị ấy không nghĩ đến biến tịnh thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với biến tịnh thiên, không nghĩ (tự ngã) như là biến tịnh thiên, không nghĩ: “biến tịnh thiên là của ta”, – không dục hỷ biến tịnh thiên.
Subhakiṇhe subhakiṇhato abhiññāya subhakiṇhe na maññati, subhakiṇhesu na maññati, subhakiṇhato na maññati, subhakiṇhe meti na maññati, subhakiṇhe nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri quảng quả thiên là quảng quả thiên.
Vehapphale vehapphalato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri quảng quả thiên, vị ấy không nghĩ đến quảng quả thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với quảng quả thiên, không nghĩ (tự ngã) như là quảng quả thiên, không nghĩ: “quảng quả thiên là của ta”, – không dục hỷ quảng quả thiên.
Vehapphale vehapphalato abhiññāya vehapphale na maññati, vehapphalesu na maññati, vehapphalato na maññati, vehapphale meti na maññati, vehapphale nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri Abhibū (Thắng Giả) là Abhibū (Thắng Giả).
Abhibhuṃ abhibhuto abhijānāti.
Vị ấy thắng tri Abhibū (Thắng Giả), vị ấy không nghĩ đến Abhibū (Thắng Giả), không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Abhibū (Thắng Giả), không nghĩ (tự ngã) như là Abhibū (Thắng Giả), không nghĩ: “Abhibū (Thắng Giả) là của ta”, – không dục hỷ Abhibū (Thắng Giả).
Abhibhuṃ abhibhuto abhiññāya abhibhuṃ na maññati, abhibhusmiṃ na maññati, abhibhuto na maññati, abhibhuṃ meti na maññati, abhibhuṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri không vô biên xứ là không vô biên xứ.
Ākāsānañcāyatanaṃ ākāsānañcāyatanato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri không vô biên xứ, vị ấy không nghĩ đến không vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với không vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) như là không vô biên xứ, không nghĩ: “không vô biên xứ là của ta”, – không dục hỷ không vô biên xứ.
Ākāsānañcāyatanaṃ ākāsānañcāyatanato abhiññāya ākāsānañcāyatanaṃ na maññati, ākāsānañcāyatanasmiṃ na maññati, ākāsānañcāyatanato na maññati, ākāsānañcāyatanaṃ meti na maññati, ākāsānañcāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri thức vô biên xứ là thức vô biên xứ.
Viññāṇañcāyatanaṃ viññāṇañcāyatanato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri thức vô biên xứ, vị ấy không nghĩ đến thức vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với thức vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) như là thức vô biên xứ, không nghĩ: “thức vô biên xứ là của ta”, – không dục hỷ thức vô biên xứ.
Viññāṇañcāyatanaṃ viññāṇañcāyatanato abhiññāya viññāṇañcāyatanaṃ na maññati, viññāṇañcāyatanasmiṃ na maññati, viññāṇañcāyatanato na maññati, viññāṇañcāyatanaṃ meti na maññati, viññāṇañcāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri vô sở hữu xứ là vô sở hữu xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri vô sở hữu xứ , vị ấy không nghĩ đến vô sở hữu xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với vô sở hữu xứ, không nghĩ (tự ngã) như là vô sở hữu xứ, không nghĩ: “vô sở hữu xứ là của ta”, – không dục hỷ vô sở hữu xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhiññāya ākiñcaññāyatanaṃ na maññati, ākiñcaññāyatanasmiṃ na maññati, ākiñcaññāyatanato na maññati, ākiñcaññāyatanaṃ meti na maññati, ākiñcaññāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri phi tưởng phi phi tưởng xứ là phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri phi tưởng phi phi tưởng xứ, vị ấy không nghĩ đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phi tưởng phi phi tưởng xứ, không nghĩ (tự ngã) như là phi tưởng phi phi tưởng xứ, không nghĩ: “phi tưởng phi phi tưởng xứ là của ta”, – không dục hỷ phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Nevasaññānāsaññāyatanaṃ nevasaññānāsaññāyatanato abhiññāya nevasaññānāsaññāyatanaṃ na maññati, nevasaññānāsaññāyatanasmiṃ na maññati, nevasaññānāsaññāyatanato na maññati, nevasaññānāsaññāyatanaṃ meti na maññati, nevasaññānāsaññāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri sở kiến là sở kiến.
Diṭṭhaṃ diṭṭhato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sở kiến, vị ấy không nghĩ đến sở kiến, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở kiến, không nghĩ (tự ngã) như là sở kiến, không nghĩ: “sở kiến là của ta”, – không dục hỷ sở kiến.
Diṭṭhaṃ diṭṭhato abhiññāya diṭṭhaṃ na maññati, diṭṭhasmiṃ na maññati, diṭṭhato na maññati, diṭṭhaṃ meti na maññati, diṭṭhaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri sở văn là sở văn.
Sutaṃ sutato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sở văn, vị ấy không nghĩ đến sở văn, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở văn, không nghĩ (tự ngã) như là sở văn, không nghĩ: “sở văn là của ta”, – không dục hỷ sở văn.
Sutaṃ sutato abhiññāya sutaṃ na maññati, sutasmiṃ na maññati, sutato na maññati, sutaṃ meti na maññati, sutaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri sở tư niệm là sở tư niệm.
Mutaṃ mutato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sở tư niệm, vị ấy không nghĩ đến sở tư niệm, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở tư niệm, không nghĩ (tự ngã) như là sở tư niệm, không nghĩ: “sở tư niệm là của ta”, – không dục hỷ sở tư niệm.
Mutaṃ mutato abhiññāya mutaṃ na maññati, mutasmiṃ na maññati, mutato na maññati, mutaṃ meti na maññati, mutaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri sở tri là sở tri.
Viññātaṃ viññātato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sở tri, vị ấy không nghĩ đến sở tri, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở tri, không nghĩ (tự ngã) như là sở tri, không nghĩ: “sở tri là của ta”, – không dục hỷ sở tri.
Viññātaṃ viññātato abhiññāya viññātaṃ na maññati, viññātasmiṃ na maññati, viññātato na maññati, viññātaṃ meti na maññati, viññātaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri đồng nhất là đồng nhất.
Ekattaṃ ekattato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri đồng nhất, vị ấy không nghĩ đến đồng nhất, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với đồng nhất, không nghĩ (tự ngã) như là đồng nhất, không nghĩ: “đồng nhất là của ta”, – không dục hỷ đồng nhất.
Ekattaṃ ekattato abhiññāya ekattaṃ na maññati, ekattasmiṃ na maññati, ekattato na maññati, ekattaṃ meti na maññati, ekattaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri sai biệt là sai biệt.
Nānattaṃ nānattato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sai biệt, vị ấy không nghĩ đến sai biệt, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sai biệt, không nghĩ (tự ngã) như là sai biệt, không nghĩ: “sai biệt là của ta”, – không dục hỷ sai biệt.
Nānattaṃ nānattato abhiññāya nānattaṃ na maññati, nānattasmiṃ na maññati, nānattato na maññati, nānattaṃ meti na maññati, nānattaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri tất cả là tất cả.
Sabbaṃ sabbato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri tất cả, vị ấy không nghĩ đến tất cả, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với tất cả, không nghĩ (tự ngã) như là tất cả, không nghĩ: “tất cả là của ta”, – không dục hỷ tất cả.
Sabbaṃ sabbato abhiññāya sabbaṃ na maññati, sabbasmiṃ na maññati, sabbato na maññati, sabbaṃ meti na maññati, sabbaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn;
nibbānaṃ nibbānato abhijānāti;
vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy đã không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: “Niết-bàn là của ta” – không dục hỷ Niết-bàn.
nibbānaṃ nibbānato abhiññāya nibbānaṃ na maññati, nibbānasmiṃ na maññati, nibbānato na maññati, nibbānaṃ meti na maññati, nibbānaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Khayā dosassa, vītadosattā.
5. Bậc A-La-Hán-IV
Khīṇāsavavasena pañcamanayabhūmiparicchedo niṭṭhito
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại.
Yopi so, bhikkhave, bhikkhu arahaṃ khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṃyojano sammadaññāvimutto, sopi pathaviṃ pathavito abhijānāti;
Vì thắng trí địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: “Ðịa đại là của ta” – không dục hỷ địa đại.
pathaviṃ pathavito abhiññāya pathaviṃ na maññati, pathaviyā na maññati, pathavito na maññati, pathaviṃ meti na maññati, pathaviṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri thuỷ đại là thuỷ đại.
Āpaṃ āpato abhijānāti;
Vị ấy thắng tri thủy đại, vị ấy không nghĩ đến thuỷ đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với thuỷ đại, không nghĩ (tự ngã) như là thuỷ đại, không nghĩ: “Thuỷ đại là của ta”, – không dục hỷ thuỷ đại.
āpaṃ āpato abhiññāya āpaṃ na maññati, āpasmiṃ na maññati, āpato na maññati, āpaṃ meti na maññati, āpaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri hỏa đại là hoả đại.
Tejaṃ tejato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri hoả đại, vị ấy không nghĩ đến hoả đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với hoả đại, không nghĩ (tự ngã) như là hoả đại, không nghĩ: “Hoả đại là của ta”, – không dục hỷ hoả đại.
Tejaṃ tejato abhiññāya tejaṃ na maññati, tejasmiṃ na maññati, tejato na maññati, tejaṃ meti na maññati, tejaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri phong đại là phong đại.
Vāyaṃ vāyato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri phong đại, vị ấy không nghĩ đến phong đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phong đại, không nghĩ (tự ngã) như là phong đại, không nghĩ: “Phong đại là của ta”, – không dục hỷ phong đại.
Vāyaṃ vāyato abhiññāya vāyaṃ na maññati, vāyasmiṃ na maññati, vāyato na maññati, vāyaṃ meti na maññati, vāyaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri sanh vật là sanh vật.
Bhūte bhūtato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sanh vật, vị ấy không nghĩ đến sanh vật, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sanh vật, không nghĩ (tự ngã) như là sanh vật, đã không nghĩ: “Sanh vật là của ta”, – không dục hỷ sanh vật.
Bhūte bhūtato abhiññāya bhūte na maññati, bhūtesu na maññati, bhūtato na maññati, bhūte meti na maññati, bhūte nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri chư thiên là chư thiên.
Deve devato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri chư thiên, vị ấy không nghĩ đến chư thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với chư thiên, không nghĩ (tự ngã) như là chư thiên, không nghĩ: “Chư thiên là của ta”, – không dục hỷ chư thiên.
Deve devato abhiññāya deve na maññati, devesu na maññati, devato na maññati, deve meti na maññati, deve nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri sanh chủ là sanh chủ.
Pajāpatiṃ pajāpatito abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sanh chủ, vị ấy không nghĩ đến sanh chủ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sanh chủ, không nghĩ (tự ngã) như là sanh chủ, không nghĩ: “Sanh chủ là của ta”, – không dục hỷ sanh chủ.
Pajāpatiṃ pajāpatito abhiññāya pajāpatiṃ na maññati, pajāpatismiṃ na maññati, pajāpatito na maññati, pajāpatiṃ meti na maññati, pajāpatiṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri phạm thiên là phạm thiên.
Brahmaṃ brahmato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri phạm thiên, vị ấy không nghĩ đến phạm thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phạm thiên, không nghĩ (tự ngã) như là phạm thiên, không nghĩ: “Phạm thiên là của ta”, – không dục hỷ phạm thiên.
Brahmaṃ brahmato abhiññāya brahmaṃ na maññati, brahmasmiṃ na maññati, brahmato na maññati, brahmaṃ meti na maññati, brahmaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri quang âm thiên là quang âm thiên.
Ābhassare ābhassarato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri quang âm thiên, vị ấy không nghĩ đến quang âm thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với quang âm thiên, không nghĩ (tự ngã) như là quang âm thiên, không nghĩ: “Quang âm thiên là của ta”, – không dục hỷ quang âm thiên.
Ābhassare ābhassarato abhiññāya ābhassare na maññati, ābhassaresu na maññati, ābhassarato na maññati, ābhassare meti na maññati, ābhassare nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri biến tịnh thiên là biến tịnh thiên.
Subhakiṇhe subhakiṇhato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri biến tịnh thiên, vị ấy không nghĩ đến biến tịnh thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với biến tịnh thiên, không nghĩ (tự ngã) như là biến tịnh thiên, không nghĩ: “biến tịnh thiên là của ta”, – không dục hỷ biến tịnh thiên.
Subhakiṇhe subhakiṇhato abhiññāya subhakiṇhe na maññati, subhakiṇhesu na maññati, subhakiṇhato na maññati, subhakiṇhe meti na maññati, subhakiṇhe nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri quảng quả thiên là quảng quả thiên.
Vehapphale vehapphalato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri quảng quả thiên, vị ấy không nghĩ đến quảng quả thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với quảng quả thiên, không nghĩ (tự ngã) như là quảng quả thiên, không nghĩ: “quảng quả thiên là của ta”, – không dục hỷ quảng quả thiên.
Vehapphale vehapphalato abhiññāya vehapphale na maññati, vehapphalesu na maññati, vehapphalato na maññati, vehapphale meti na maññati, vehapphale nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri Abhibū (Thắng Giả) là Abhibū (Thắng Giả).
Abhibhuṃ abhibhuto abhijānāti.
Vị ấy thắng tri Abhibū (Thắng Giả), vị ấy không nghĩ đến Abhibū (Thắng Giả), không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Abhibū (Thắng Giả), không nghĩ (tự ngã) như là Abhibū (Thắng Giả), không nghĩ: “Abhibū (Thắng Giả) là của ta”, – không dục hỷ Abhibū (Thắng Giả).
Abhibhuṃ abhibhuto abhiññāya abhibhuṃ na maññati, abhibhusmiṃ na maññati, abhibhuto na maññati, abhibhuṃ meti na maññati, abhibhuṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri không vô biên xứ là không vô biên xứ.
Ākāsānañcāyatanaṃ ākāsānañcāyatanato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri không vô biên xứ, vị ấy không nghĩ đến không vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với không vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) như là không vô biên xứ, không nghĩ: “không vô biên xứ là của ta”, – không dục hỷ không vô biên xứ.
Ākāsānañcāyatanaṃ ākāsānañcāyatanato abhiññāya ākāsānañcāyatanaṃ na maññati, ākāsānañcāyatanasmiṃ na maññati, ākāsānañcāyatanato na maññati, ākāsānañcāyatanaṃ meti na maññati, ākāsānañcāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri thức vô biên xứ là thức vô biên xứ.
Viññāṇañcāyatanaṃ viññāṇañcāyatanato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri thức vô biên xứ, vị ấy không nghĩ đến thức vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với thức vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) như là thức vô biên xứ, không nghĩ: “thức vô biên xứ là của ta”, – không dục hỷ thức vô biên xứ.
Viññāṇañcāyatanaṃ viññāṇañcāyatanato abhiññāya viññāṇañcāyatanaṃ na maññati, viññāṇañcāyatanasmiṃ na maññati, viññāṇañcāyatanato na maññati, viññāṇañcāyatanaṃ meti na maññati, viññāṇañcāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri vô sở hữu xứ là vô sở hữu xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri vô sở hữu xứ , vị ấy không nghĩ đến vô sở hữu xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với vô sở hữu xứ, không nghĩ (tự ngã) như là vô sở hữu xứ, không nghĩ: “vô sở hữu xứ là của ta”, – không dục hỷ vô sở hữu xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhiññāya ākiñcaññāyatanaṃ na maññati, ākiñcaññāyatanasmiṃ na maññati, ākiñcaññāyatanato na maññati, ākiñcaññāyatanaṃ meti na maññati, ākiñcaññāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri phi tưởng phi phi tưởng xứ là phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri phi tưởng phi phi tưởng xứ, vị ấy không nghĩ đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phi tưởng phi phi tưởng xứ, không nghĩ (tự ngã) như là phi tưởng phi phi tưởng xứ, không nghĩ: “phi tưởng phi phi tưởng xứ là của ta”, – không dục hỷ phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Nevasaññānāsaññāyatanaṃ nevasaññānāsaññāyatanato abhiññāya nevasaññānāsaññāyatanaṃ na maññati, nevasaññānāsaññāyatanasmiṃ na maññati, nevasaññānāsaññāyatanato na maññati, nevasaññānāsaññāyatanaṃ meti na maññati, nevasaññānāsaññāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri sở kiến là sở kiến.
Diṭṭhaṃ diṭṭhato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sở kiến, vị ấy không nghĩ đến sở kiến, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở kiến, không nghĩ (tự ngã) như là sở kiến, không nghĩ: “sở kiến là của ta”, – không dục hỷ sở kiến.
Diṭṭhaṃ diṭṭhato abhiññāya diṭṭhaṃ na maññati, diṭṭhasmiṃ na maññati, diṭṭhato na maññati, diṭṭhaṃ meti na maññati, diṭṭhaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri sở văn là sở văn.
Sutaṃ sutato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sở văn, vị ấy không nghĩ đến sở văn, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở văn, không nghĩ (tự ngã) như là sở văn, không nghĩ: “sở văn là của ta”, – không dục hỷ sở văn.
Sutaṃ sutato abhiññāya sutaṃ na maññati, sutasmiṃ na maññati, sutato na maññati, sutaṃ meti na maññati, sutaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri sở tư niệm là sở tư niệm.
Mutaṃ mutato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sở tư niệm, vị ấy không nghĩ đến sở tư niệm, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở tư niệm, không nghĩ (tự ngã) như là sở tư niệm, không nghĩ: “sở tư niệm là của ta”, – không dục hỷ sở tư niệm.
Mutaṃ mutato abhiññāya mutaṃ na maññati, mutasmiṃ na maññati, mutato na maññati, mutaṃ meti na maññati, mutaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri sở tri là sở tri.
Viññātaṃ viññātato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sở tri, vị ấy không nghĩ đến sở tri, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở tri, không nghĩ (tự ngã) như là sở tri, không nghĩ: “sở tri là của ta”, – không dục hỷ sở tri.
Viññātaṃ viññātato abhiññāya viññātaṃ na maññati, viññātasmiṃ na maññati, viññātato na maññati, viññātaṃ meti na maññati, viññātaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri đồng nhất là đồng nhất.
Ekattaṃ ekattato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri đồng nhất, vị ấy không nghĩ đến đồng nhất, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với đồng nhất, không nghĩ (tự ngã) như là đồng nhất, không nghĩ: “đồng nhất là của ta”, – không dục hỷ đồng nhất.
Ekattaṃ ekattato abhiññāya ekattaṃ na maññati, ekattasmiṃ na maññati, ekattato na maññati, ekattaṃ meti na maññati, ekattaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri sai biệt là sai biệt.
Nānattaṃ nānattato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri sai biệt, vị ấy không nghĩ đến sai biệt, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sai biệt, không nghĩ (tự ngã) như là sai biệt, không nghĩ: “sai biệt là của ta”, – không dục hỷ sai biệt.
Nānattaṃ nānattato abhiññāya nānattaṃ na maññati, nānattasmiṃ na maññati, nānattato na maññati, nānattaṃ meti na maññati, nānattaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri tất cả là tất cả.
Sabbaṃ sabbato abhijānāti.
Vị ấy thắng tri tất cả, vị ấy không nghĩ đến tất cả, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với tất cả, không nghĩ (tự ngã) như là tất cả, không nghĩ: “tất cả là của ta”, – không dục hỷ tất cả.
Sabbaṃ sabbato abhiññāya sabbaṃ na maññati, sabbasmiṃ na maññati, sabbato na maññati, sabbaṃ meti na maññati, sabbaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn;
nibbānaṃ nibbānato abhijānāti;
vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy đã không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: “Niết-bàn là của ta” – không dục hỷ Niết-bàn.
nibbānaṃ nibbānato abhiññāya nibbānaṃ na maññati, nibbānasmiṃ na maññati, nibbānato na maññati, nibbānaṃ meti na maññati, nibbānaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Khayā mohassa, vītamohattā.
6. Đấng Như Lai-I
Khīṇāsavavasena chaṭṭhanayabhūmiparicchedo niṭṭhito
Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thắng tri địa đại là địa đại.
Tathāgatopi, bhikkhave, arahaṃ sammāsambuddho pathaviṃ pathavito abhijānāti;
Vì thắng tri địa đại là địa đại, Ngài không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: “Ðịa đại là của ta” – không dục hỷ địa đại.
pathaviṃ pathavito abhiññāya pathaviṃ na maññati, pathaviyā na maññati, pathavito na maññati, pathaviṃ meti na maññati, pathaviṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri địa đại.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri thuỷ đại là thuỷ đại.
Āpaṃ āpato abhijānāti;
Vì thắng tri thủy đại, Ngài không nghĩ đến thuỷ đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với thuỷ đại, không nghĩ (tự ngã) như là thuỷ đại, không nghĩ: “Thuỷ đại là của ta”, – không dục hỷ thuỷ đại.
āpaṃ āpato abhiññāya āpaṃ na maññati, āpasmiṃ na maññati, āpato na maññati, āpaṃ meti na maññati, āpaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri thuỷ đại.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri hỏa đại là hoả đại.
Tejaṃ tejato abhijānāti.
Vì thắng tri hoả đại, Ngài không nghĩ đến hoả đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với hoả đại, không nghĩ (tự ngã) như là hoả đại, không nghĩ: “Hoả đại là của ta”, – không dục hỷ hoả đại.
Tejaṃ tejato abhiññāya tejaṃ na maññati, tejasmiṃ na maññati, tejato na maññati, tejaṃ meti na maññati, tejaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri hoả đại.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri phong đại là phong đại.
Vāyaṃ vāyato abhijānāti.
Vì thắng tri phong đại, Ngài không nghĩ đến phong đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phong đại, không nghĩ (tự ngã) như là phong đại, không nghĩ: “Phong đại là của ta”, – không dục hỷ phong đại.
Vāyaṃ vāyato abhiññāya vāyaṃ na maññati, vāyasmiṃ na maññati, vāyato na maññati, vāyaṃ meti na maññati, vāyaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri phong đại.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri sanh vật là sanh vật.
Bhūte bhūtato abhijānāti.
Vì thắng tri sanh vật, Ngài không nghĩ đến sanh vật, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sanh vật, không nghĩ (tự ngã) như là sanh vật, đã không nghĩ: “Sanh vật là của ta”, – không dục hỷ sanh vật.
Bhūte bhūtato abhiññāya bhūte na maññati, bhūtesu na maññati, bhūtato na maññati, bhūte meti na maññati, bhūte nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri sanh vật.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri chư thiên là chư thiên.
Deve devato abhijānāti.
Vì thắng tri chư thiên, Ngài không nghĩ đến chư thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với chư thiên, không nghĩ (tự ngã) như là chư thiên, không nghĩ: “Chư thiên là của ta”, – không dục hỷ chư thiên.
Deve devato abhiññāya deve na maññati, devesu na maññati, devato na maññati, deve meti na maññati, deve nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri chư thiên.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri sanh chủ là sanh chủ.
Pajāpatiṃ pajāpatito abhijānāti.
Vì thắng tri sanh chủ, Ngài không nghĩ đến sanh chủ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sanh chủ, không nghĩ (tự ngã) như là sanh chủ, không nghĩ: “Sanh chủ là của ta”, – không dục hỷ sanh chủ.
Pajāpatiṃ pajāpatito abhiññāya pajāpatiṃ na maññati, pajāpatismiṃ na maññati, pajāpatito na maññati, pajāpatiṃ meti na maññati, pajāpatiṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri sanh chủ.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri phạm thiên là phạm thiên.
Brahmaṃ brahmato abhijānāti.
Vì thắng tri phạm thiên, Ngài không nghĩ đến phạm thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phạm thiên, không nghĩ (tự ngã) như là phạm thiên, không nghĩ: “Phạm thiên là của ta”, – không dục hỷ phạm thiên.
Brahmaṃ brahmato abhiññāya brahmaṃ na maññati, brahmasmiṃ na maññati, brahmato na maññati, brahmaṃ meti na maññati, brahmaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri phạm thiên.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri quang âm thiên là quang âm thiên.
Ābhassare ābhassarato abhijānāti.
Vì thắng tri quang âm thiên, Ngài không nghĩ đến quang âm thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với quang âm thiên, không nghĩ (tự ngã) như là quang âm thiên, không nghĩ: “Quang âm thiên là của ta”, – không dục hỷ quang âm thiên.
Ābhassare ābhassarato abhiññāya ābhassare na maññati, ābhassaresu na maññati, ābhassarato na maññati, ābhassare meti na maññati, ābhassare nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri quang âm thiên.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri biến tịnh thiên là biến tịnh thiên.
Subhakiṇhe subhakiṇhato abhijānāti.
Vì thắng tri biến tịnh thiên, Ngài không nghĩ đến biến tịnh thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với biến tịnh thiên, không nghĩ (tự ngã) như là biến tịnh thiên, không nghĩ: “biến tịnh thiên là của ta”, – không dục hỷ biến tịnh thiên.
Subhakiṇhe subhakiṇhato abhiññāya subhakiṇhe na maññati, subhakiṇhesu na maññati, subhakiṇhato na maññati, subhakiṇhe meti na maññati, subhakiṇhe nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri biến tịnh thiên.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri quảng quả thiên là quảng quả thiên.
Vehapphale vehapphalato abhijānāti.
Vì thắng tri quảng quả thiên, Ngài không nghĩ đến quảng quả thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với quảng quả thiên, không nghĩ (tự ngã) như là quảng quả thiên, không nghĩ: “quảng quả thiên là của ta”, – không dục hỷ quảng quả thiên.
Vehapphale vehapphalato abhiññāya vehapphale na maññati, vehapphalesu na maññati, vehapphalato na maññati, vehapphale meti na maññati, vehapphale nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri quảng quả thiên.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri Abhibū (Thắng Giả) là Abhibū (Thắng Giả).
Abhibhuṃ abhibhuto abhijānāti.
Vì thắng tri Abhibū (Thắng Giả), Ngài không nghĩ đến Abhibū (Thắng Giả), không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Abhibū (Thắng Giả), không nghĩ (tự ngã) như là Abhibū (Thắng Giả), không nghĩ: “Abhibū (Thắng Giả) là của ta”, – không dục hỷ Abhibū (Thắng Giả).
Abhibhuṃ abhibhuto abhiññāya abhibhuṃ na maññati, abhibhusmiṃ na maññati, abhibhuto na maññati, abhibhuṃ meti na maññati, abhibhuṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri Abhibū (Thắng Giả).
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri không vô biên xứ là không vô biên xứ.
Ākāsānañcāyatanaṃ ākāsānañcāyatanato abhijānāti.
Vì thắng tri không vô biên xứ, Ngài không nghĩ đến không vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với không vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) như là không vô biên xứ, không nghĩ: “không vô biên xứ là của ta”, – không dục hỷ không vô biên xứ.
Ākāsānañcāyatanaṃ ākāsānañcāyatanato abhiññāya ākāsānañcāyatanaṃ na maññati, ākāsānañcāyatanasmiṃ na maññati, ākāsānañcāyatanato na maññati, ākāsānañcāyatanaṃ meti na maññati, ākāsānañcāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri không vô biên xứ.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri thức vô biên xứ là thức vô biên xứ.
Viññāṇañcāyatanaṃ viññāṇañcāyatanato abhijānāti.
Vì thắng tri thức vô biên xứ, Ngài không nghĩ đến thức vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với thức vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) như là thức vô biên xứ, không nghĩ: “thức vô biên xứ là của ta”, – không dục hỷ thức vô biên xứ.
Viññāṇañcāyatanaṃ viññāṇañcāyatanato abhiññāya viññāṇañcāyatanaṃ na maññati, viññāṇañcāyatanasmiṃ na maññati, viññāṇañcāyatanato na maññati, viññāṇañcāyatanaṃ meti na maññati, viññāṇañcāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri thức vô biên xứ.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri vô sở hữu xứ là vô sở hữu xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhijānāti.
Vì thắng tri vô sở hữu xứ , Ngài không nghĩ đến vô sở hữu xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với vô sở hữu xứ, không nghĩ (tự ngã) như là vô sở hữu xứ, không nghĩ: “vô sở hữu xứ là của ta”, – không dục hỷ vô sở hữu xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhiññāya ākiñcaññāyatanaṃ na maññati, ākiñcaññāyatanasmiṃ na maññati, ākiñcaññāyatanato na maññati, ākiñcaññāyatanaṃ meti na maññati, ākiñcaññāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri vô sở hữu xứ.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri phi tưởng phi phi tưởng xứ là phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhijānāti.
Vì thắng tri phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ngài không nghĩ đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phi tưởng phi phi tưởng xứ, không nghĩ (tự ngã) như là phi tưởng phi phi tưởng xứ, không nghĩ: “phi tưởng phi phi tưởng xứ là của ta”, – không dục hỷ phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Nevasaññānāsaññāyatanaṃ nevasaññānāsaññāyatanato abhiññāya nevasaññānāsaññāyatanaṃ na maññati, nevasaññānāsaññāyatanasmiṃ na maññati, nevasaññānāsaññāyatanato na maññati, nevasaññānāsaññāyatanaṃ meti na maññati, nevasaññānāsaññāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri phi tưởng phi phi tưởng xứ.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri sở kiến là sở kiến.
Diṭṭhaṃ diṭṭhato abhijānāti.
Vì thắng tri sở kiến, Ngài không nghĩ đến sở kiến, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở kiến, không nghĩ (tự ngã) như là sở kiến, không nghĩ: “sở kiến là của ta”, – không dục hỷ sở kiến.
Diṭṭhaṃ diṭṭhato abhiññāya diṭṭhaṃ na maññati, diṭṭhasmiṃ na maññati, diṭṭhato na maññati, diṭṭhaṃ meti na maññati, diṭṭhaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri sở kiến.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri sở văn là sở văn.
Sutaṃ sutato abhijānāti.
Vì thắng tri sở văn, Ngài không nghĩ đến sở văn, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở văn, không nghĩ (tự ngã) như là sở văn, không nghĩ: “sở văn là của ta”, – không dục hỷ sở văn.
Sutaṃ sutato abhiññāya sutaṃ na maññati, sutasmiṃ na maññati, sutato na maññati, sutaṃ meti na maññati, sutaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri sở văn.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri sở tư niệm là sở tư niệm.
Mutaṃ mutato abhijānāti.
Vì thắng tri sở tư niệm, Ngài không nghĩ đến sở tư niệm, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở tư niệm, không nghĩ (tự ngã) như là sở tư niệm, không nghĩ: “sở tư niệm là của ta”, – không dục hỷ sở tư niệm.
Mutaṃ mutato abhiññāya mutaṃ na maññati, mutasmiṃ na maññati, mutato na maññati, mutaṃ meti na maññati, mutaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri sở tư niệm.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri sở tri là sở tri.
Viññātaṃ viññātato abhijānāti.
Vì thắng tri sở tri, Ngài không nghĩ đến sở tri, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở tri, không nghĩ (tự ngã) như là sở tri, không nghĩ: “sở tri là của ta”, – không dục hỷ sở tri.
Viññātaṃ viññātato abhiññāya viññātaṃ na maññati, viññātasmiṃ na maññati, viññātato na maññati, viññātaṃ meti na maññati, viññātaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri sở tri.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri đồng nhất là đồng nhất.
Ekattaṃ ekattato abhijānāti.
Vì thắng tri đồng nhất, Ngài không nghĩ đến đồng nhất, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với đồng nhất, không nghĩ (tự ngã) như là đồng nhất, không nghĩ: “đồng nhất là của ta”, – không dục hỷ đồng nhất.
Ekattaṃ ekattato abhiññāya ekattaṃ na maññati, ekattasmiṃ na maññati, ekattato na maññati, ekattaṃ meti na maññati, ekattaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri đồng nhất.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri sai biệt là sai biệt.
Nānattaṃ nānattato abhijānāti.
Vì thắng tri sai biệt, Ngài không nghĩ đến sai biệt, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sai biệt, không nghĩ (tự ngã) như là sai biệt, không nghĩ: “sai biệt là của ta”, – không dục hỷ sai biệt.
Nānattaṃ nānattato abhiññāya nānattaṃ na maññati, nānattasmiṃ na maññati, nānattato na maññati, nānattaṃ meti na maññati, nānattaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri sai biệt.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri tất cả là tất cả.
Sabbaṃ sabbato abhijānāti.
Vì thắng tri tất cả, Ngài không nghĩ đến tất cả, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với tất cả, không nghĩ (tự ngã) như là tất cả, không nghĩ: “tất cả là của ta”, – không dục hỷ tất cả.
Sabbaṃ sabbato abhiññāya sabbaṃ na maññati, sabbasmiṃ na maññati, sabbato na maññati, sabbaṃ meti na maññati, sabbaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri tất cả.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn;
nibbānaṃ nibbānato abhijānāti;
Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, Như Lai không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: “Niết-bàn là của ta” – không dục hỷ Niết-bàn.
nibbānaṃ nibbānato abhiññāya nibbānaṃ na maññati, nibbānasmiṃ na maññati, nibbānato na maññati, nibbānaṃ meti na maññati, nibbānaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Ta nói vì Như Lai đã liễu tri Niết Bàn.
‘Pariññātantaṃ tathāgatassā’ti vadāmi.
7. Đấng Như Lai-II
Tathāgatavasena sattamanayabhūmiparicchedo niṭṭhito
Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thắng tri địa đại là địa đại.
Tathāgatopi, bhikkhave, arahaṃ sammāsambuddho pathaviṃ pathavito abhijānāti;
Vì thắng tri địa đại là địa đại, Như Lai không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: “Ðịa đại là của ta” – không dục hỷ địa đại.
pathaviṃ pathavito abhiññāya pathaviṃ na maññati, pathaviyā na maññati, pathavito na maññati, pathaviṃ meti na maññati, pathaviṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri thuỷ đại là thuỷ đại.
Āpaṃ āpato abhijānāti;
Vì thắng tri thủy đại, Như Lai không nghĩ đến thuỷ đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với thuỷ đại, không nghĩ (tự ngã) như là thuỷ đại, không nghĩ: “Thuỷ đại là của ta”, – không dục hỷ thuỷ đại.
āpaṃ āpato abhiññāya āpaṃ na maññati, āpasmiṃ na maññati, āpato na maññati, āpaṃ meti na maññati, āpaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri hỏa đại là hoả đại.
Tejaṃ tejato abhijānāti.
Vì thắng tri hoả đại, Như Lai không nghĩ đến hoả đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với hoả đại, không nghĩ (tự ngã) như là hoả đại, không nghĩ: “Hoả đại là của ta”, – không dục hỷ hoả đại.
Tejaṃ tejato abhiññāya tejaṃ na maññati, tejasmiṃ na maññati, tejato na maññati, tejaṃ meti na maññati, tejaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri phong đại là phong đại.
Vāyaṃ vāyato abhijānāti.
Vì thắng tri phong đại, Như Lai không nghĩ đến phong đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phong đại, không nghĩ (tự ngã) như là phong đại, không nghĩ: “Phong đại là của ta”, – không dục hỷ phong đại.
Vāyaṃ vāyato abhiññāya vāyaṃ na maññati, vāyasmiṃ na maññati, vāyato na maññati, vāyaṃ meti na maññati, vāyaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri sanh vật là sanh vật.
Bhūte bhūtato abhijānāti.
Vì thắng tri sanh vật, Như Lai không nghĩ đến sanh vật, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sanh vật, không nghĩ (tự ngã) như là sanh vật, đã không nghĩ: “Sanh vật là của ta”, – không dục hỷ sanh vật.
Bhūte bhūtato abhiññāya bhūte na maññati, bhūtesu na maññati, bhūtato na maññati, bhūte meti na maññati, bhūte nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri chư thiên là chư thiên.
Deve devato abhijānāti.
Vì thắng tri chư thiên, Như Lai không nghĩ đến chư thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với chư thiên, không nghĩ (tự ngã) như là chư thiên, không nghĩ: “Chư thiên là của ta”, – không dục hỷ chư thiên.
Deve devato abhiññāya deve na maññati, devesu na maññati, devato na maññati, deve meti na maññati, deve nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri sanh chủ là sanh chủ.
Pajāpatiṃ pajāpatito abhijānāti.
Vì thắng tri sanh chủ, Như Lai không nghĩ đến sanh chủ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sanh chủ, không nghĩ (tự ngã) như là sanh chủ, không nghĩ: “Sanh chủ là của ta”, – không dục hỷ sanh chủ.
Pajāpatiṃ pajāpatito abhiññāya pajāpatiṃ na maññati, pajāpatismiṃ na maññati, pajāpatito na maññati, pajāpatiṃ meti na maññati, pajāpatiṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri phạm thiên là phạm thiên.
Brahmaṃ brahmato abhijānāti.
Vì thắng tri phạm thiên, Như Lai không nghĩ đến phạm thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phạm thiên, không nghĩ (tự ngã) như là phạm thiên, không nghĩ: “Phạm thiên là của ta”, – không dục hỷ phạm thiên.
Brahmaṃ brahmato abhiññāya brahmaṃ na maññati, brahmasmiṃ na maññati, brahmato na maññati, brahmaṃ meti na maññati, brahmaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri quang âm thiên là quang âm thiên.
Ābhassare ābhassarato abhijānāti.
Vì thắng tri quang âm thiên, Ngài không nghĩ đến quang âm thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với quang âm thiên, không nghĩ (tự ngã) như là quang âm thiên, không nghĩ: “Quang âm thiên là của ta”, – không dục hỷ quang âm thiên.
Ābhassare ābhassarato abhiññāya ābhassare na maññati, ābhassaresu na maññati, ābhassarato na maññati, ābhassare meti na maññati, ābhassare nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri biến tịnh thiên là biến tịnh thiên.
Subhakiṇhe subhakiṇhato abhijānāti.
Vì thắng tri biến tịnh thiên, Như Lai không nghĩ đến biến tịnh thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với biến tịnh thiên, không nghĩ (tự ngã) như là biến tịnh thiên, không nghĩ: “biến tịnh thiên là của ta”, – không dục hỷ biến tịnh thiên.
Subhakiṇhe subhakiṇhato abhiññāya subhakiṇhe na maññati, subhakiṇhesu na maññati, subhakiṇhato na maññati, subhakiṇhe meti na maññati, subhakiṇhe nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri quảng quả thiên là quảng quả thiên.
Vehapphale vehapphalato abhijānāti.
Vì thắng tri quảng quả thiên, Như Lai không nghĩ đến quảng quả thiên, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với quảng quả thiên, không nghĩ (tự ngã) như là quảng quả thiên, không nghĩ: “quảng quả thiên là của ta”, – không dục hỷ quảng quả thiên.
Vehapphale vehapphalato abhiññāya vehapphale na maññati, vehapphalesu na maññati, vehapphalato na maññati, vehapphale meti na maññati, vehapphale nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri Abhibū (Thắng Giả) là Abhibū (Thắng Giả).
Abhibhuṃ abhibhuto abhijānāti.
Vì thắng tri Abhibū (Thắng Giả), Như Lai không nghĩ đến Abhibū (Thắng Giả), không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Abhibū (Thắng Giả), không nghĩ (tự ngã) như là Abhibū (Thắng Giả), không nghĩ: “Abhibū (Thắng Giả) là của ta”, – không dục hỷ Abhibū (Thắng Giả).
Abhibhuṃ abhibhuto abhiññāya abhibhuṃ na maññati, abhibhusmiṃ na maññati, abhibhuto na maññati, abhibhuṃ meti na maññati, abhibhuṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri không vô biên xứ là không vô biên xứ.
Ākāsānañcāyatanaṃ ākāsānañcāyatanato abhijānāti.
Vì thắng tri không vô biên xứ, Như Lai không nghĩ đến không vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với không vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) như là không vô biên xứ, không nghĩ: “không vô biên xứ là của ta”, – không dục hỷ không vô biên xứ.
Ākāsānañcāyatanaṃ ākāsānañcāyatanato abhiññāya ākāsānañcāyatanaṃ na maññati, ākāsānañcāyatanasmiṃ na maññati, ākāsānañcāyatanato na maññati, ākāsānañcāyatanaṃ meti na maññati, ākāsānañcāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri thức vô biên xứ là thức vô biên xứ.
Viññāṇañcāyatanaṃ viññāṇañcāyatanato abhijānāti.
Vì thắng tri thức vô biên xứ, Như Lai không nghĩ đến thức vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với thức vô biên xứ, không nghĩ (tự ngã) như là thức vô biên xứ, không nghĩ: “thức vô biên xứ là của ta”, – không dục hỷ thức vô biên xứ.
Viññāṇañcāyatanaṃ viññāṇañcāyatanato abhiññāya viññāṇañcāyatanaṃ na maññati, viññāṇañcāyatanasmiṃ na maññati, viññāṇañcāyatanato na maññati, viññāṇañcāyatanaṃ meti na maññati, viññāṇañcāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri vô sở hữu xứ là vô sở hữu xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhijānāti.
Vì thắng tri vô sở hữu xứ , Như Lai không nghĩ đến vô sở hữu xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với vô sở hữu xứ, không nghĩ (tự ngã) như là vô sở hữu xứ, không nghĩ: “vô sở hữu xứ là của ta”, – không dục hỷ vô sở hữu xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhiññāya ākiñcaññāyatanaṃ na maññati, ākiñcaññāyatanasmiṃ na maññati, ākiñcaññāyatanato na maññati, ākiñcaññāyatanaṃ meti na maññati, ākiñcaññāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri phi tưởng phi phi tưởng xứ là phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Ākiñcaññāyatanaṃ ākiñcaññāyatanato abhijānāti.
Vì thắng tri phi tưởng phi phi tưởng xứ, Như Lai không nghĩ đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phi tưởng phi phi tưởng xứ, không nghĩ (tự ngã) như là phi tưởng phi phi tưởng xứ, không nghĩ: “phi tưởng phi phi tưởng xứ là của ta”, – không dục hỷ phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Nevasaññānāsaññāyatanaṃ nevasaññānāsaññāyatanato abhiññāya nevasaññānāsaññāyatanaṃ na maññati, nevasaññānāsaññāyatanasmiṃ na maññati, nevasaññānāsaññāyatanato na maññati, nevasaññānāsaññāyatanaṃ meti na maññati, nevasaññānāsaññāyatanaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri sở kiến là sở kiến.
Diṭṭhaṃ diṭṭhato abhijānāti.
Vì thắng tri sở kiến, Như Lai không nghĩ đến sở kiến, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở kiến, không nghĩ (tự ngã) như là sở kiến, không nghĩ: “sở kiến là của ta”, – không dục hỷ sở kiến.
Diṭṭhaṃ diṭṭhato abhiññāya diṭṭhaṃ na maññati, diṭṭhasmiṃ na maññati, diṭṭhato na maññati, diṭṭhaṃ meti na maññati, diṭṭhaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri sở văn là sở văn.
Sutaṃ sutato abhijānāti.
Vì thắng tri sở văn, Như Lai không nghĩ đến sở văn, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở văn, không nghĩ (tự ngã) như là sở văn, không nghĩ: “sở văn là của ta”, – không dục hỷ sở văn.
Sutaṃ sutato abhiññāya sutaṃ na maññati, sutasmiṃ na maññati, sutato na maññati, sutaṃ meti na maññati, sutaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri sở tư niệm là sở tư niệm.
Mutaṃ mutato abhijānāti.
Vì thắng tri sở tư niệm, Như Lai không nghĩ đến sở tư niệm, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở tư niệm, không nghĩ (tự ngã) như là sở tư niệm, không nghĩ: “sở tư niệm là của ta”, – không dục hỷ sở tư niệm.
Mutaṃ mutato abhiññāya mutaṃ na maññati, mutasmiṃ na maññati, mutato na maññati, mutaṃ meti na maññati, mutaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri sở tư niệm là sở tư niệm.
Mutaṃ mutato abhijānāti.
Như Lai thắng tri sở tri là sở tri.
Viññātaṃ viññātato abhijānāti.
Vì thắng tri sở tri, Như Lai không nghĩ đến sở tri, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sở tri, không nghĩ (tự ngã) như là sở tri, không nghĩ: “sở tri là của ta”, – không dục hỷ sở tri.
Viññātaṃ viññātato abhiññāya viññātaṃ na maññati, viññātasmiṃ na maññati, viññātato na maññati, viññātaṃ meti na maññati, viññātaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri đồng nhất là đồng nhất.
Ekattaṃ ekattato abhijānāti.
Vì thắng tri đồng nhất, Như Lai không nghĩ đến đồng nhất, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với đồng nhất, không nghĩ (tự ngã) như là đồng nhất, không nghĩ: “đồng nhất là của ta”, – không dục hỷ đồng nhất.
Ekattaṃ ekattato abhiññāya ekattaṃ na maññati, ekattasmiṃ na maññati, ekattato na maññati, ekattaṃ meti na maññati, ekattaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri sai biệt là sai biệt.
Nānattaṃ nānattato abhijānāti.
Vì thắng tri sai biệt, Như Lai không nghĩ đến sai biệt, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với sai biệt, không nghĩ (tự ngã) như là sai biệt, không nghĩ: “sai biệt là của ta”, – không dục hỷ sai biệt.
Nānattaṃ nānattato abhiññāya nānattaṃ na maññati, nānattasmiṃ na maññati, nānattato na maññati, nānattaṃ meti na maññati, nānattaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri tất cả là tất cả.
Sabbaṃ sabbato abhijānāti.
Vì thắng tri tất cả, Như Lai không nghĩ đến tất cả, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với tất cả, không nghĩ (tự ngã) như là tất cả, không nghĩ: “tất cả là của ta”, – không dục hỷ tất cả.
Sabbaṃ sabbato abhiññāya sabbaṃ na maññati, sabbasmiṃ na maññati, sabbato na maññati, sabbaṃ meti na maññati, sabbaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Như Lai thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn;
nibbānaṃ nibbānato abhijānāti;
Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, Như Lai không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: “Niết-bàn là của ta” – không dục hỷ Niết-bàn.
nibbānaṃ nibbānato abhiññāya nibbānaṃ na maññati, nibbānasmiṃ na maññati, nibbānato na maññati, nibbānaṃ meti na maññati, nibbānaṃ nābhinandati.
Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?
Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ,
‘Nandī dukkhassa mūlan’ti—
từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”.
iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘tathāgato sabbaso taṇhānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti vadāmi.
Tathāgatavasena aṭṭhamanayabhūmiparicchedo niṭṭhito.
Như vậy, Thế Tôn thuyết giảng.
Idamavoca bhagavā.
Các Tỷ-kheo ấy không hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
Na te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Mūlapariyāyasuttaṃ niṭṭhitaṃ paṭhamaṃ.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt