Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Majjhima Nikāya - Trung Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trung Bộ 11

Trung Bộ 11
Majjhima Nikāya 11

Tiểu Kinh Sư Tử Hống
Cūḷasīhanādasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), trong vườn ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc).
ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo.”
Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi: “bhikkhavo”ti.

“Bạch Thế Tôn,” những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết như sau:
“Bhadante”ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca:

“‘Này các Tỷ-kheo, chỉ ở đây là có Sa-môn thứ nhất; ở đây là có Sa-môn thứ hai; ở đây là có Sa-môn thứ ba; ở đây là có Sa-môn thứ tư;
“Idheva, bhikkhave, samaṇo, idha dutiyo samaṇo, idha tatiyo samaṇo, idha catuttho samaṇo;

các ngoại đạo khác không có Sa-môn.’
suññā parappavādā samaṇebhi aññehīti.

Này các Tỷ-kheo, các Ông hãy chân chánh rống tiếng rống sư tử như vậy.
Evametaṃ, bhikkhave, sammā sīhanādaṃ nadatha.

Này các Tỷ-kheo, sự tình này xảy ra khi ở đây những Du sĩ ngoại đạo có thể nói:
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, bhikkhave, vijjati yaṃ aññatitthiyā paribbājakā evaṃ vadeyyuṃ:

Chư Tôn giả có tin tưởng gì, có sức lực gì mà chư Tôn giả tuyên bố: ‘Chỉ ở đây là có Sa-môn thứ nhất; ở đây là có Sa-môn thứ hai; ở đây là có Sa-môn thứ ba; ở đây là có Sa-môn thứ tư; các ngoại đạo khác không có Sa-môn’?
‘ko panāyasmantānaṃ assāso, kiṃ balaṃ, yena tumhe āyasmanto evaṃ vadetha—idheva samaṇo, idha dutiyo samaṇo, idha tatiyo samaṇo, idha catuttho samaṇo; suññā parappavādā samaṇebhi aññehī’ti?

Này các Tỷ-kheo, nếu được các Du sĩ ngoại đạo nói như vậy, cần phải trả lời họ như sau:
Evaṃvādino, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā evamassu vacanīyā:

‘Chư Hiền, vì chúng tôi tự chánh kiến bốn pháp, được Thế Tôn tuyên bố cho chúng tôi biết, bậc đã thấy, đã biết, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nên chúng tôi nói:
‘atthi kho no, āvuso, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena cattāro dhammā akkhātā ye mayaṃ attani sampassamānā evaṃ vadema—

“Chỉ ở đây là có Sa-môn thứ nhất, ở đây là có Sa-môn thứ hai; Sa-môn thứ ba; Sa-môn thứ tư.
idheva samaṇo, idha dutiyo samaṇo, idha tatiyo samaṇo, idha catuttho samaṇo;

các ngoại đạo khác không có Sa-môn”
suññā parappavādā samaṇebhi aññehīti.

Thế nào là bốn?
Katame cattāro?

Chư Hiền, chúng tôi có lòng tin bậc Ðạo Sư, có lòng tin Pháp, có sự thành tựu viên mãn các Giới luật, và những pháp hữu của chúng tôi, những người cư sĩ và những người xuất gia, được chúng tôi thương, chúng tôi mến.
Atthi kho no, āvuso, satthari pasādo, atthi dhamme pasādo, atthi sīlesu paripūrakāritā; sahadhammikā kho pana piyā manāpā—gahaṭṭhā ceva pabbajitā ca.

Chư Hiền, vì chúng tôi tự chánh kiến bốn pháp, được Thế Tôn tuyên bố cho chúng tôi biết, bậc đã thấy, đã biết, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nên chúng tôi nói: ‘Chỉ ở đây là Sa-môn… Sa-môn thứ tư; các ngoại đạo khác không có Sa-môn’”.
Ime kho no, āvuso, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena cattāro dhammā akkhātā ye mayaṃ attani sampassamānā evaṃ vadema—idheva samaṇo, idha dutiyo samaṇo, idha tatiyo samaṇo, idha catuttho samaṇo;suññā parappavādā samaṇebhi aññehī’ti.

Này các Tỷ-kheo, sự tình này xảy ra, khi ở đây, những Du sĩ ngoại đạo có thể nói:
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, bhikkhave, vijjati yaṃ aññatitthiyā paribbājakā evaṃ vadeyyuṃ:

‘Chư Hiền, chúng tôi cũng có lòng tin bậc Ðạo Sư, vị ấy là Ðạo Sư của chúng tôi. Chúng tôi có lòng tin Pháp, Pháp ấy là Pháp của chúng tôi, chúng tôi thành tựu viên mãn các Giới luật, những Giới luật ấy là Giới luật của chúng tôi.
‘amhākampi kho, āvuso, atthi satthari pasādo yo amhākaṃ satthā, amhākampi atthi dhamme pasādo yo amhākaṃ dhammo, mayampi sīlesu paripūrakārino yāni amhākaṃ sīlāni,

Và những pháp hữu của chúng tôi, những người cư sĩ và cả những người xuất gia, được chúng tôi thương, được chúng tôi mến.
amhākampi sahadhammikā piyā manāpā—gahaṭṭhā ceva pabbajitā ca.

Chư Hiền, như vậy có sự sai biệt gì, có sự đặc thù gì, có sự khác biệt gì giữa quý vị và chúng tôi?’
Idha no, āvuso, ko viseso ko adhippayāso kiṃ nānākaraṇaṃ yadidaṃ tumhākañceva amhākañcā’ti?

Chư Tỷ-kheo, nếu được các Du sĩ ngoại đạo nói như vậy, cần phải trả lời họ như sau:
Evaṃvādino, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā evamassu vacanīyā:

‘Chư Hiền, cứu cánh là một hay cứu cánh là đa diện?’
‘kiṃ panāvuso, ekā niṭṭhā, udāhu puthu niṭṭhā’ti?

Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả lời:
Sammā byākaramānā, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ byākareyyuṃ:

‘Chư Hiền, cứu cánh là một, cứu cánh không phải đa diện.’
‘ekāvuso, niṭṭhā, na puthu niṭṭhā’ti.

‘Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có tham, hay cho người không tham?’
‘Sā panāvuso, niṭṭhā sarāgassa udāhu vītarāgassā’ti?

Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả lời:
Sammā byākaramānā, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ byākareyyuṃ:

“Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không tham, không phải cho người có tham”.
‘vītarāgassāvuso, sā niṭṭhā, na sā niṭṭhā sarāgassā’ti.

“Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có sân, hay cho người không sân?”
‘Sā panāvuso, niṭṭhā sadosassa udāhu vītadosassā’ti?

Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả lời:
Sammā byākaramānā, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ byākareyyuṃ:

“Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không sân, không phải cho người có sân”.
‘vītadosassāvuso, sā niṭṭhā, na sā niṭṭhā sadosassā’ti.

“Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có si hay cho người không si?
‘Sā panāvuso, niṭṭhā samohassa udāhu vītamohassā’ti?

Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả lời:
Sammā byākaramānā, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ byākareyyuṃ:

“Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không si, không phải cho người có si”.
‘vītamohassāvuso, sā niṭṭhā, na sā niṭṭhā samohassā’ti.

“Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có ái, hay cho người không ái?”
‘Sā panāvuso, niṭṭhā sataṇhassa udāhu vītataṇhassā’ti?

Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả lời:
Sammā byākaramānā, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ byākareyyuṃ:

“Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không ái, không phải cho người có ái”.
‘vītataṇhassāvuso, sā niṭṭhā, na sā niṭṭhā sataṇhassā’ti.

‘Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có chấp thủ, hay cho người không chấp thủ?’
‘Sā panāvuso, niṭṭhā saupādānassa udāhu anupādānassā’ti?

Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả lời:
Sammā byākaramānā, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ byākareyyuṃ:

‘Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không chấp thủ, không phải cho người chấp thủ.’
‘anupādānassāvuso, sā niṭṭhā, na sā niṭṭhā saupādānassā’ti.

‘Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có trí, hay cho người không có trí?’
‘Sā panāvuso, niṭṭhā viddasuno udāhu aviddasuno’ti?

Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả lời:
Sammā byākaramānā, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ byākareyyuṃ:

‘Cứu cánh ấy cho người có trí, không phải cho người không có trí.’
‘viddasuno, āvuso, sā niṭṭhā, na sā niṭṭhā aviddasuno’ti.

‘Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người thuận ứng, nghịch ứng hay cho người không thuận ứng, không nghịch ứng?’
‘Sā panāvuso, niṭṭhā anuruddhappaṭiviruddhassa udāhu ananuruddhaappaṭiviruddhassā’ti?

Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả lời:
Sammā byākaramānā, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ byākareyyuṃ:

‘Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không thuận ứng, không nghịch ứng, không phải cho người thuận ứng, nghịch ứng.’
‘ananuruddhaappaṭiviruddhassāvuso, sā niṭṭhā, na sā niṭṭhā anuruddhappaṭiviruddhassā’ti.

‘Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người ưa hý luận, thích hý luận hay cho người không ưa hý luận, không thích hý luận?’
‘Sā panāvuso, niṭṭhā papañcārāmassa papañcaratino udāhu nippapañcārāmassa nippapañcaratino’ti?

Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo cần phải trả lời:
Sammā byākaramānā, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ byākareyyuṃ:

‘Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không ưa hý luận, không thích hý luận, không phải cho người ưa hý luận, thích hý luận.’
‘nippapañcārāmassāvuso, sā niṭṭhā nippapañcaratino, na sā niṭṭhā papañcārāmassa papañcaratino’ti.

Chư Tỷ-kheo, có hai loại tri kiến này: hữu kiến và phi hữu kiến.
Dvemā, bhikkhave, diṭṭhiyo—bhavadiṭṭhi ca vibhavadiṭṭhi ca.

Chư Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chấp trước hữu kiến, thân thiết hữu kiến, cố chấp hữu kiến; những vị ấy bị chướng ngại đối với phi hữu kiến.
Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā bhavadiṭṭhiṃ allīnā bhavadiṭṭhiṃ upagatā bhavadiṭṭhiṃ ajjhositā, vibhavadiṭṭhiyā te paṭiviruddhā.

Chư Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chấp trước phi hữu kiến, thân thiết phi hữu kiến, cố chấp phi hữu kiến; những vị ấy bị chướng ngại bởi hữu kiến.
Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā vibhavadiṭṭhiṃ allīnā vibhavadiṭṭhiṃ upagatā vibhavadiṭṭhiṃ ajjhositā, bhavadiṭṭhiyā te paṭiviruddhā.

Chư Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không như thật tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn diệt của hai loại kiến này, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của chúng, những vị này là những vị có tham, có sân, có si, có ái, có chấp thủ, không có trí, có thuận ứng, có nghịch ứng, có ưa hý luận, có thích hý luận;
Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā imāsaṃ dvinnaṃ diṭṭhīnaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ nappajānanti, ‘te sarāgā te sadosā te samohā te sataṇhā te saupādānā te aviddasuno te anuruddhappaṭiviruddhā te papañcārāmā papañcaratino;

những vị ấy không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
te na parimuccanti jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi;

Ta nói những vị ấy không giải thoát khỏi đau khổ.
na parimuccanti dukkhasmā’ti vadāmi.

Chư Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào như thật tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn diệt của hai loại kiến này, vị ngọt, sự nguy hiểm, và sự xuất ly của chúng; những vị này là những vị không tham, không sân, không si, không ái, không chấp thủ, có trí, không có thuận ứng, không có nghịch ứng, không ưa hý luận, không thích hý luận;
Ye ca kho keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā imāsaṃ dvinnaṃ diṭṭhīnaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ pajānanti, ‘te vītarāgā te vītadosā te vītamohā te vītataṇhā te anupādānā te viddasuno te ananuruddhaappaṭiviruddhā te nippapañcārāmā nippapañcaratino;

những vị ấy giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
te parimuccanti jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi;

Ta nói những vị ấy giải thoát khỏi đau khổ.
parimuccanti dukkhasmā’ti vadāmi.

Chư Tỷ-kheo, có bốn chấp thủ. Thế nào là bốn?
Cattārimāni, bhikkhave, upādānāni. Katamāni cattāri?

Dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ.
Kāmupādānaṃ, diṭṭhupādānaṃ, sīlabbatupādānaṃ, attavādupādānaṃ.

Chư Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ.
Santi, bhikkhave, eke samaṇabrāhmaṇā sabbupādānapariññāvādā paṭijānamānā.

nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ; họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về kiến thủ, về giới cấm thủ, về ngã luận thủ. Vì sao vậy?
Te na sammā sabbupādānapariññaṃ paññapenti—kāmupādānassa pariññaṃ paññapenti, na diṭṭhupādānassa pariññaṃ paññapenti, na sīlabbatupādānassa pariññaṃ paññapenti, na attavādupādānassa pariññaṃ paññapenti. Taṃ kissa hetu?

Những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy không như thật tuệ tri ba sự.
Imāni hi te bhonto samaṇabrāhmaṇā tīṇi ṭhānāni yathābhūtaṃ nappajānanti.

Do vậy, những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ,
Tasmā te bhonto samaṇabrāhmaṇā sabbupādānapariññāvādā paṭijānamānā;

nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ.
te na sammā sabbupādānapariññaṃ paññapenti—

Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về kiến thủ, về giới cấm thủ, về ngã luận thủ.
kāmupādānassa pariññaṃ paññapenti, na diṭṭhupādānassa pariññaṃ paññapenti, na sīlabbatupādānassa pariññaṃ paññapenti, na attavādupādānassa pariññaṃ paññapenti.

Chư Tỷ-kheo, có những Sa-môn hay Bà-la-môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ,
Santi, bhikkhave, eke samaṇabrāhmaṇā sabbupādānapariññāvādā paṭijānamānā.

nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ.
Te na sammā sabbupādānapariññaṃ paññapenti—

Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ nhưng không hiển thị sự liễu tri về giới cấm thủ, sự liễu tri về ngã luận thủ. Vì sao vậy?
kāmupādānassa pariññaṃ paññapenti, diṭṭhupādānassa pariññaṃ paññapenti, na sīlabbatupādānassa pariññaṃ paññapenti, na attavādupādānassa pariññaṃ paññapenti. Taṃ kissa hetu?

Những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy không như thật tuệ tri hai sự.
Imāni hi te bhonto samaṇabrāhmaṇā dve ṭhānāni yathābhūtaṃ nappajānanti.

Do vậy, những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ,
Tasmā te bhonto samaṇabrāhmaṇā sabbupādānapariññāvādā paṭijānamānā;

nhưng không chơn chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ; nhưng không hiển thị sự liễu tri về giới cấm thủ, sự liễu tri về ngã luận thủ.
te na sammā sabbupādānapariññaṃ paññapenti—kāmupādānassa pariññaṃ paññapenti, diṭṭhupādānassa pariññaṃ paññapenti, na sīlabbatupādānassa pariññaṃ paññapenti, na attavādupādānassa pariññaṃ paññapenti.

Chư Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ,
Santi, bhikkhave, eke samaṇabrāhmaṇā sabbupādānapariññāvādā paṭijānamānā.

nhưng không chơn chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ.
Te na sammā sabbupādānapariññaṃ paññapenti—

Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri về giới cấm thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về ngã luận thủ. Vì sao vậy?
kāmupādānassa pariññaṃ paññapenti, diṭṭhupādānassa pariññaṃ paññapenti, sīlabbatupādānassa pariññaṃ paññapenti, na attavādupādānassa pariññaṃ paññapenti. Taṃ kissa hetu?

Những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy không như thật tuệ tri một sự.
Imañhi te bhonto samaṇabrāhmaṇā ekaṃ ṭhānaṃ yathābhūtaṃ nappajānanti.

Do vậy, những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ,
Tasmā te bhonto samaṇabrāhmaṇā sabbupādānapariññāvādā paṭijānamānā;

nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri về giới cấm thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về ngã luận thủ.
te na sammā sabbupādānapariññaṃ paññapenti—kāmupādānassa pariññaṃ paññapenti, diṭṭhupādānassa pariññaṃ paññapenti, sīlabbatupādānassa pariññaṃ paññapenti, na attavādupādānassa pariññaṃ paññapenti.

Chư Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật như vậy, nếu có tịnh tín đối với Ðạo Sư, tịnh tín ấy được xem là không hoàn toàn;
Evarūpe kho, bhikkhave, dhammavinaye yo satthari pasādo so na sammaggato akkhāyati;

nếu có tịnh tín đối với Pháp, tịnh tín ấy được xem là không hoàn toàn;
yo dhamme pasādo so na sammaggato akkhāyati;

nếu có thành tựu viên mãn các Giới luật, sự thành tựu ấy được xem là không hoàn toàn;
yā sīlesu paripūrakāritā sā na sammaggatā akkhāyati;

nếu có sự thương mến đối với những pháp hữu, sự thương mến ấy được xem là không hoàn toàn.
yā sahadhammikesu piyamanāpatā sā na sammaggatā akkhāyati.

Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?

Chư Tỷ-kheo, sự tình là như vậy, trong một Pháp và Luật không khéo thuyết giảng, không khéo hiển thị, không có hướng thượng, không dẫn đến tịch tịnh, không được bậc Chánh Ðẳng Giác hiển thị.
Evañhetaṃ, bhikkhave, hoti yathā taṃ durakkhāte dhammavinaye duppavedite aniyyānike anupasamasaṃvattanike asammāsambuddhappavedite.

Và Như Tỷ-kheo, bậc Như Lai, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tự xưng liễu tri tất cả thủ, chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ.
Tathāgato ca kho, bhikkhave, arahaṃ sammāsambuddho sabbupādānapariññāvādo paṭijānamāno sammā sabbupādānapariññaṃ paññapeti—

Như Lai hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri về giới cấm thủ, sự liễu tri về ngã luận thủ.
kāmupādānassa pariññaṃ paññapeti, diṭṭhupādānassa pariññaṃ paññapeti, sīlabbatupādānassa pariññaṃ paññapeti, attavādupādānassa pariññaṃ paññapeti.

Chư Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật như vậy, nếu có tịnh tín đối với bậc Ðạo Sư, tịnh tín ấy được xem là hoàn toàn;
Evarūpe kho, bhikkhave, dhammavinaye yo satthari pasādo so sammaggato akkhāyati;

nếu có tịnh tín đối với Pháp, tịnh tín ấy được xem là hoàn toàn;
yo dhamme pasādo so sammaggato akkhāyati;

nếu có thành tựu viên mãn các Giới luật, sự thành tựu ấy được xem là hoàn toàn;
yā sīlesu paripūrakāritā sā sammaggatā akkhāyati;

nếu có sự thương mến đối với các pháp hữu, sự thương mến ấy được xem là hoàn toàn.
yā sahadhammikesu piyamanāpatā sā sammaggatā akkhāyati.

Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?

Chư Tỷ-kheo, sự tình là như vậy, trong một Pháp và Luật khéo thuyết giảng, khéo hiển thị, có hướng thượng, dẫn đến tịch tịnh, được bậc Chánh Ðẳng Giác hiển thị.
Evañhetaṃ, bhikkhave, hoti yathā taṃ svākkhāte dhammavinaye suppavedite niyyānike upasamasaṃvattanike sammāsambuddhappavedite.

Chư Tỷ-kheo, bốn loại chấp thủ này, lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân?
Ime ca, bhikkhave, cattāro upādānā. Kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā?

Bốn loại chấp thủ này lấy ái làm duyên, lấy ái làm tập khởi, lấy ái làm chủng, lấy ái làm nhân.
Ime cattāro upādānā taṇhānidānā taṇhāsamudayā taṇhājātikā taṇhāpabhavā.

Chư Tỷ-kheo, ái này lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân?
Taṇhā cāyaṃ, bhikkhave, kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā?

Chư Tỷ-kheo, ái này lấy thọ làm duyên, lấy thọ làm tập khởi, lấy thọ làm chủng, lấy thọ làm nhân.
Taṇhā vedanānidānā vedanāsamudayā vedanājātikā vedanāpabhavā.

Chư Tỷ-kheo, thọ này lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân?
Vedanā cāyaṃ, bhikkhave, kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā?

Chư Tỷ-kheo, thọ này lấy xúc làm duyên, lấy xúc làm tập khởi, lấy xúc làm chủng, lấy xúc làm nhân.
Vedanā phassanidānā phassasamudayā phassajātikā phassapabhavā.

Chư Tỷ-kheo, xúc này lấy gì làm duyên… lấy gì làm nhân?
Phasso cāyaṃ, bhikkhave, kiṃnidāno kiṃsamudayo kiṃjātiko kiṃpabhavo?

Chư Tỷ-kheo, xúc này lấy sáu nhập làm duyên… lấy sáu nhập làm nhân.
Phasso saḷāyatananidāno saḷāyatanasamudayo saḷāyatanajātiko saḷāyatanapabhavo.

Chư Tỷ-kheo, sáu nhập này lấy gì làm duyên… lấy gì làm nhân?
Saḷāyatanañcidaṃ, bhikkhave, kiṃnidānaṃ kiṃsamudayaṃ kiṃjātikaṃ kiṃpabhavaṃ?

Chư Tỷ-kheo, sáu nhập này lấy danh sắc làm duyên… lấy danh sắc làm nhân.
Saḷāyatanaṃ nāmarūpanidānaṃ nāmarūpasamudayaṃ nāmarūpajātikaṃ nāmarūpapabhavaṃ.

Chư Tỷ-kheo, danh sắc này lấy gì làm duyên… lấy gì làm nhân?
Nāmarūpañcidaṃ, bhikkhave, kiṃnidānaṃ kiṃsamudayaṃ kiṃjātikaṃ kiṃpabhavaṃ?

Chư Tỷ-kheo, danh sắc này lấy thức làm duyên… lấy thức làm nhân.
Nāmarūpaṃ viññāṇanidānaṃ viññāṇasamudayaṃ viññāṇajātikaṃ viññāṇapabhavaṃ.

Chư Tỷ-kheo, thức này lấy gì làm duyên… lấy gì làm nhân?
Viññāṇañcidaṃ, bhikkhave, kiṃnidānaṃ kiṃsamudayaṃ kiṃjātikaṃ kiṃpabhavaṃ?

Chư Tỷ-kheo, thức này lấy hành làm duyên… lấy hành làm nhân.
Viññāṇaṃ saṅkhāranidānaṃ saṅkhārasamudayaṃ saṅkhārajātikaṃ saṅkhārapabhavaṃ.

Chư Tỷ-kheo, hành này lấy gì làm duyên… lấy gì làm nhân?
Saṅkhārā cime, bhikkhave, kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā?

Chư Tỷ-kheo, hành này lấy vô minh làm duyên… lấy vô minh làm nhân.
Saṅkhārā avijjānidānā avijjāsamudayā avijjājātikā avijjāpabhavā.

Và Chư Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo đã đoạn trừ vô minh, đã làm minh sanh khởi, vị ấy do vô minh được đoạn trừ, do minh sanh khởi, nên không chấp thủ dục thủ, không chấp thủ kiến thủ, không chấp thủ giới cấm thủ, không chấp thủ ngã luận thủ.
Yato ca kho, bhikkhave, bhikkhuno avijjā pahīnā hoti vijjā uppannā, so avijjāvirāgā vijjuppādā neva kāmupādānaṃ upādiyati, na diṭṭhupādānaṃ upādiyati, na sīlabbatupādānaṃ upādiyati, na attavādupādānaṃ upādiyati.

Nhờ không chấp thủ nên không tháo động, nhờ không tháo động, nên tự thân chứng được Niết-bàn;
Anupādiyaṃ na paritassati, aparitassaṃ paccattaññeva parinibbāyati.

vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.
‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānātī”ti.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Idamavoca bhagavā.

Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.

Cūḷasīhanādasuttaṃ niṭṭhitaṃ paṭhamaṃ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt