Trung Bộ 136
Majjhima Nikāya 136
Đại Kinh Nghiệp Phân Biệt
Mahākammavibhaṅgasutta
Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—
Một thời, Thế Tôn ở Rājagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng sóc.
ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Samiddhi trú tại một cái cốc trong rừng.
Tena kho pana samayena āyasmā samiddhi araññakuṭikāyaṃ viharati.
Rồi du sĩ ngoại đạo Potaliputta tiêu dao tản bộ, tuần tự du hành, đi đến Tôn giả Samiddhi; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Samiddhi những lời chào đón hỏi thăm.
Atha kho potaliputto paribbājako jaṅghāvihāraṃ anucaṅkamamāno anuvicaramāno yenāyasmā samiddhi tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā samiddhinā saddhiṃ sammodi.
Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, du sĩ ngoại đạo Potaliputta thưa với Tôn giả Samiddhi:
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho potaliputto paribbājako āyasmantaṃ samiddhiṃ etadavoca:
“Này Hiền giả Samiddhi, trước mặt Sa-môn Gotama, tôi tự thân nghe, tự thân ghi nhận như sau:
“sammukhā metaṃ, āvuso samiddhi, samaṇassa gotamassa sutaṃ, sammukhā paṭiggahitaṃ:
‘Hư vọng là thân nghiệp, hư vọng là khẩu nghiệp, chỉ có ý nghiệp là chân thật’.
‘moghaṃ kāyakammaṃ moghaṃ vacīkammaṃ, manokammameva saccan’ti.
Và có một Thiền chứng (samapatti), do thành tựu Thiền chứng này, sẽ không có cảm giác gì”.
Atthi ca sā samāpatti yaṃ samāpattiṃ samāpanno na kiñci vediyatī”ti?
“Này Hiền giả Potaliputta, chớ có nói vậy. Này Hiền giả Potaliputta, chớ có nói vậy. Chớ có phỉ báng Thế Tôn; phỉ báng Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy: ‘Hư vọng là thân nghiệp, hư vọng là khẩu nghiệp, chỉ có ý nghiệp là chân thật’.
“Mā hevaṃ, āvuso potaliputta, avaca; mā hevaṃ, āvuso potaliputta, avaca; mā bhagavantaṃ abbhācikkhi. Na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ. Na hi bhagavā evaṃ vadeyya: ‘moghaṃ kāyakammaṃ moghaṃ vacīkammaṃ, manokammameva saccan’ti.
‘Và Hiền giả, có một Thiền Chứng, do thành tựu thiền chứng này, sẽ không có cảm giác gì’.”
‘Atthi ca kho sā, āvuso, samāpatti yaṃ samāpattiṃ samāpanno na kiñci vediyatī’”ti.
“Ngài xuất gia đã bao lâu, thưa Hiền giả Samiddhi?”
“Kīvaciraṃ pabbajitosi, āvuso samiddhī”ti?
“Không lâu, thưa Hiền giả. Có ba năm”.
“Na ciraṃ, āvuso, tīṇi vassānī”ti.
“Nay ở đây chúng tôi còn hỏi các Tỷ-kheo trưởng lão làm gì khi một tân Tỷ-kheo nghĩ rằng cần phải bảo vệ vị Ðạo sư như vậy.
“Ettha dāni mayaṃ there bhikkhū kiṃ vakkhāma, yatra hi nāma evaṃnavo bhikkhu satthāraṃ parirakkhitabbaṃ maññissati.
Thưa Hiền giả Samiddhi, khi một người có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp thời người ấy có cảm giác gì?”
Sañcetanikaṃ, āvuso samiddhi, kammaṃ katvā kāyena vācāya manasā kiṃ so vediyatī”ti?
“Này Hiền giả Potaliputta, khi một người có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp thời người ấy cảm giác khổ đau.”
“Sañcetanikaṃ, āvuso potaliputta, kammaṃ katvā kāyena vācāya manasā dukkhaṃ so vediyatī”ti.
Rồi du sĩ ngoại đạo Potaliputta, không tán thán cũng không phản đối lời nói của Tôn giả Samiddhi. Không tán thán, không phản đối, du sĩ ngoại đạo Potaliputta từ chỗ ngồi đứng dậy rồi ra đi.
Atha kho potaliputto paribbājako āyasmato samiddhissa bhāsitaṃ neva abhinandi nappaṭikkosi; anabhinanditvā appaṭikkositvā uṭṭhāyāsanā pakkāmi.
Rồi Tôn giả Samiddhi, sau khi du sĩ ngoại đạo Potaliputta ra đi không bao lâu, liền đi đến Tôn giả Ānanda; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Ānanda những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho āyasmā samiddhi acirapakkante potaliputte paribbājake yenāyasmā ānando tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā ānandena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.
Ngồi xuống một bên, Tôn giả Samiddhi kể lại cho Tôn giả Ānanda tất cả cuộc đàm thoại với du sĩ ngoại đạo Potaliputta.
Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā samiddhi yāvatako ahosi potaliputtena paribbājakena saddhiṃ kathāsallāpo taṃ sabbaṃ āyasmato ānandassa ārocesi.
Sau khi nghe nói vậy, Tôn giả Ānanda nói với Tôn giả Samiddhi:
Evaṃ vutte, āyasmā ānando āyasmantaṃ samiddhiṃ etadavoca:
“Này Hiền giả Samiddhi, đây là đề tài một câu chuyện cần phải yết kiến Thế Tôn.
“atthi kho idaṃ, āvuso samiddhi, kathāpābhataṃ bhagavantaṃ dassanāya.
Này Hiền giả Samiddhi, chúng ta hãy đi đến Thế Tôn, sau khi đến hãy trình bày lên Thế Tôn rõ ý nghĩa này.
Āyāmāvuso samiddhi, yena bhagavā tenupasaṅkamissāma; upasaṅkamitvā etamatthaṃ bhagavato ārocessāma.
Thế Tôn trả lời chúng ta như thế nào, chúng ta hãy như vậy thọ trì.”
Yathā no bhagavā byākarissati tathā naṃ dhāressāmā”ti.
“Thưa vâng, Hiền giả”. Tôn giả Samiddhi vâng đáp Tôn giả Ānanda.
“Evamāvuso”ti kho āyasmā samiddhi āyasmato ānandassa paccassosi.
Rồi Tôn giả Ānanda và Tôn giả Samiddhi đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho āyasmā ca ānando āyasmā ca samiddhi yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda, trình lên Thế Tôn tất cả câu chuyện giữa Tôn giả Samiddhi với du sĩ ngoại đạo Potaliputta.
Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā ānando yāvatako ahosi āyasmato samiddhissa potaliputtena paribbājakena saddhiṃ kathāsallāpo taṃ sabbaṃ bhagavato ārocesi.
Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với Tôn giả Ānanda:
Evaṃ vutte, bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ etadavoca:
“Này Ānanda, Ta chưa từng thấy du sĩ ngoại đạo Potaliputta, thời câu chuyện này từ đây xảy ra?
“dassanampi kho ahaṃ, ānanda, potaliputtassa paribbājakassa nābhijānāmi, kuto panevarūpaṃ kathāsallāpaṃ?
Này Ānanda, câu hỏi đáng lý phải trả lời phân tích rõ ràng cho du sĩ ngoại đạo Potaliputta, lại được kẻ ngu si Samiddhi này trả lời theo một chiều.”
Iminā ca, ānanda, samiddhinā moghapurisena potaliputtassa paribbājakassa vibhajjabyākaraṇīyo pañho ekaṃsena byākato”ti.
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Udayi bạch Thế Tôn:
Evaṃ vutte, āyasmā udāyī bhagavantaṃ etadavoca:
“Bạch Thế Tôn, nếu đây là ý nghĩa của Tôn giả Samiddhi nói lên, thời cảm giác gì người ấy cảm thọ là cảm giác khổ đau”.
“sace pana, bhante, āyasmatā samiddhinā idaṃ sandhāya bhāsitaṃ—yaṃ kiñci vedayitaṃ taṃ dukkhasmin”ti.
Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Ānanda:
Atha kho bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi:
“Này Ānanda, hãy xem con đường sai lạc của kẻ ngu si Udayi này.
“passasi no tvaṃ, ānanda, imassa udāyissa moghapurisassa ummaṅgaṃ?
Này Ānanda, Ta biết rằng:
Aññāsiṃ kho ahaṃ, ānanda:
nếu nay kẻ ngu si Udayi này mở miệng ra (đề cập vấn đề gì), ông ấy sẽ mở miệng đề cập một cách không như lý (ayoniso).
‘idānevāyaṃ udāyī moghapuriso ummujjamāno ayoniso ummujjissatī’ti.
Này Ānanda, thật sự chỗ khởi thủy của du sĩ ngoại đạo Potaliputta hỏi là về ba cảm thọ.
Ādiṃyeva, ānanda, potaliputtena paribbājakena tisso vedanā pucchitā.
Này Ānanda, nếu kẻ ngu si Samiddhi này được du sĩ ngoại đạo Potaliputta hỏi như vậy và trả lời như sau:
Sacāyaṃ, ānanda, samiddhi moghapuriso potaliputtassa paribbājakassa evaṃ puṭṭho evaṃ byākareyya:
‘Này Hiền giả Potaliputta, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, có khả năng đưa đến lạc thọ, người ấy sẽ cảm giác lạc thọ.
‘sañcetanikaṃ, āvuso potaliputta, kammaṃ katvā kāyena vācāya manasā sukhavedanīyaṃ sukhaṃ so vedayati;
Này Hiền giả Potaliputta, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến khổ thọ, người ấy sẽ cảm giác khổ thọ.
sañcetanikaṃ, āvuso potaliputta, kammaṃ katvā kāyena vācāya manasā dukkhavedanīyaṃ dukkhaṃ so vedayati;
Này Hiền giả Potaliputta, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến bất khổ bất lạc thọ, người ấy sẽ cảm giác bất khổ bất lạc thọ’;
sañcetanikaṃ, āvuso potaliputta, kammaṃ katvā kāyena vācāya manasā adukkhamasukhavedanīyaṃ adukkhamasukhaṃ so vedayatī’ti.
nếu trả lời như vậy, này Ānanda, kẻ ngu si Samiddhi đã trả lời một cách chơn chánh cho du sĩ ngoại đạo Potaliputta.
Evaṃ byākaramāno kho, ānanda, samiddhi moghapuriso potaliputtassa paribbājakassa sammā byākaramāno byākareyya.
Và lại nữa, này Ānanda, những kẻ du sĩ ngoại đạo ngu si, kém học, họ sẽ hiểu được đại phân biệt về nghiệp của Như Lai? Này Ānanda, nếu Ông nghe Như Lai phân tích đại phân biệt về nghiệp”.
Api ca, ānanda, ke ca aññatitthiyā paribbājakā bālā abyattā ke ca tathāgatassa mahākammavibhaṅgaṃ jānissanti? Sace tumhe, ānanda, suṇeyyātha tathāgatassa mahākammavibhaṅgaṃ vibhajantassā”ti.
“Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời; bạch Thiện Thệ nay đã đến thời, Thế Tôn hãy phân tích đại phân biệt về nghiệp! Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì”.
“Etassa, bhagavā, kālo, etassa, sugata, kālo yaṃ bhagavā mahākammavibhaṅgaṃ vibhajeyya. Bhagavato sutvā bhikkhū dhāressantī”ti.
“Vậy này Ānanda, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.”
“Tena hānanda, suṇāhi, sādhukaṃ manasi karohi; bhāsissāmī”ti.
“Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Tôn giả Ānanda vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
“Evaṃ, bhante”ti kho āyasmā ānando bhagavato paccassosi. Bhagavā etadavoca:
“Này Ānanda, có bốn loại người này có mặt ở đời. Thế nào là bốn?
“Cattārome, ānanda, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame cattāro?
Ở đây, này Ānanda, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có tà kiến;
Idhānanda, ekacco puggalo idha pāṇātipātī hoti, adinnādāyī hoti, kāmesumicchācārī hoti, musāvādī hoti, pisuṇavāco hoti, pharusavāco hoti, samphappalāpī hoti, abhijjhālu hoti, byāpannacitto hoti, micchādiṭṭhi hoti.
sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati.
Nhưng ở đây, này Ānanda, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có tà kiến;
Idha panānanda, ekacco puggalo idha pāṇātipātī hoti, adinnādāyī hoti, kāmesumicchācārī hoti, musāvādī hoti, pisuṇavāco hoti, pharusavāco hoti, samphappalāpī hoti, abhijjhālu hoti, byāpannacitto hoti, micchādiṭṭhi hoti.
sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati.
Ở đây, này Ānanda, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói ác khẩu, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham dục, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến;
Idhānanda, ekacco puggalo idha pāṇātipātā paṭivirato hoti, adinnādānā paṭivirato hoti, kāmesumicchācārā paṭivirato hoti, musāvādā paṭivirato hoti, pisuṇāya vācāya paṭivirato hoti, pharusāya vācāya paṭivirato hoti, samphappalāpā paṭivirato hoti, anabhijjhālu hoti, abyāpannacitto hoti, sammādiṭṭhi hoti.
sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati.
Nhưng ở đây, này Ānanda, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói ác khẩu, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham dục, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến;
Idha panānanda, ekacco puggalo idha pāṇātipātā paṭivirato hoti, adinnādānā paṭivirato hoti, kāmesumicchācārā paṭivirato hoti, musāvādā paṭivirato hoti, pisuṇāya vācāya paṭivirato hoti, pharusāya vācāya paṭivirato hoti, samphappalāpā paṭivirato hoti, anabhijjhālu hoti, abyāpannacitto hoti, sammādiṭṭhi hoti.
sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati.
Ở đây, này Ānanda, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh tác ý, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, nhờ thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, vị ấy thấy:
Idhānanda, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ phusati yathāsamāhite citte dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena amuṃ puggalaṃ passati—
Ở đây, này Ānanda, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh tác ý, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, nhờ thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, vị ấy thấy có người ở đây sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
idha pāṇātipātiṃ adinnādāyiṃ kāmesumicchācāriṃ musāvādiṃ pisuṇavācaṃ pharusavācaṃ samphappalāpiṃ abhijjhāluṃ byāpannacittaṃ micchādiṭṭhiṃ kāyassa bhedā paraṃ maraṇā passati apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannaṃ.
Vị ấy nói như sau:
So evamāha:
‘Thật sự có những ác nghiệp, có quả báo ác hạnh.
‘atthi kira, bho, pāpakāni kammāni, atthi duccaritassa vipāko.
Và ta đã thấy có người ở đây sát sanh, lấy của không cho … nói hai lưỡi … có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục’.
Amāhaṃ puggalaṃ addasaṃ idha pāṇātipātiṃ adinnādāyiṃ ...pe... micchādiṭṭhiṃ kāyassa bhedā paraṃ maraṇā passāmi apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannan’ti.
Vị ấy nói như sau:
So evamāha:
‘Chắc chắn tất cả mọi người sát sanh, lấy của không cho … có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
‘yo kira, bho, pāṇātipātī adinnādāyī ...pe... micchādiṭṭhi, sabbo so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati.
Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí’.
Ye evaṃ jānanti, te sammā jānanti; ye aññathā jānanti, micchā tesaṃ ñāṇan’ti.
Như vậy, điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: ‘Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng’.
Iti so yadeva tassa sāmaṃ ñātaṃ sāmaṃ diṭṭhaṃ sāmaṃ viditaṃ tadeva tattha thāmasā parāmāsā abhinivissa voharati: ‘idameva saccaṃ, moghamaññan’ti.
Ở đây, này Ānanda, có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn, … vị ấy thấy có người sát sanh, lấy của không cho … có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
Idha panānanda, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ phusati yathāsamāhite citte dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena amuṃ puggalaṃ passati—idha pāṇātipātiṃ adinnādāyiṃ ...pe... micchādiṭṭhiṃ, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā passati sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannaṃ.
Vị ấy nói như sau:
So evamāha:
‘Thật sự không có những ác nghiệp, không có quả báo ác hạnh.
‘natthi kira, bho, pāpakāni kammāni, natthi duccaritassa vipāko.
Và ta đã thấy có người ở đây sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
Amāhaṃ puggalaṃ addasaṃ—idha pāṇātipātiṃ adinnādāyiṃ ...pe... micchādiṭṭhiṃ, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā passāmi sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannan’ti.
Vị ấy nói như sau:
So evamāha:
‘Chắc chắn tất cả mọi người sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến; ‘sau khi thân hoại mạng chung, họ đều được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này’.
‘yo kira, bho, pāṇātipātī adinnādāyī ...pe... micchādiṭṭhi, sabbo so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati.
Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí’.
Ye evaṃ jānanti te sammā jānanti; ye aññathā jānanti, micchā tesaṃ ñāṇan’ti.
Như vậy, điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: ‘Chỉ như vậy mới chân thực, ngoài ra đều là hư vọng’.
Iti so yadeva tassa sāmaṃ ñātaṃ sāmaṃ diṭṭhaṃ sāmaṃ viditaṃ tadeva tattha thāmasā parāmāsā abhinivissa voharati: ‘idameva saccaṃ, moghamaññan’ti.
Ở đây, này Ānanda, có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn,… vị ấy thấy có người ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
Idhānanda, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ phusati yathāsamāhite citte dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena amuṃ puggalaṃ passati—idha pāṇātipātā paṭivirataṃ adinnādānā paṭivirataṃ kāmesumicchācārā paṭivirataṃ musāvādā paṭivirataṃ pisuṇāya vācāya paṭivirataṃ pharusāya vācāya paṭivirataṃ samphappalāpā paṭivirataṃ anabhijjhāluṃ abyāpannacittaṃ sammādiṭṭhiṃ, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā passati sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannaṃ.
Vị ấy nói như sau:
So evamāha:
‘Thật sự có những thiện nghiệp, có quả báo thiện hạnh.
‘atthi kira, bho, kalyāṇāni kammāni, atthi sucaritassa vipāko.
Và ta đã thấy có người ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho … có chánh kiến sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này’.
Amāhaṃ puggalaṃ addasaṃ—idha pāṇātipātā paṭivirataṃ adinnādānā paṭivirataṃ ...pe... sammādiṭṭhiṃ, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā passāmi sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannan’ti.
Vị ấy nói như sau:
So evamāha:
‘Chắc chắn tất cả mọi người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho … có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
‘yo kira, bho, pāṇātipātā paṭivirato adinnādānā paṭivirato ...pe... sammādiṭṭhi sabbo so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati.
Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí’.
Ye evaṃ jānanti te sammā jānanti; ye aññathā jānanti, micchā tesaṃ ñāṇan’ti.
Như vậy, điều này vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: ‘Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng’.
Iti so yadeva tassa sāmaṃ ñātaṃ sāmaṃ diṭṭhaṃ sāmaṃ viditaṃ tadeva tattha thāmasā parāmāsā abhinivissa voharati: ‘idameva saccaṃ, moghamaññan’ti.
Ở đây, này Ānanda, có Sa-môn… vị ấy thấy có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho … có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Idha panānanda, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ phusati yathāsamāhite citte dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena amuṃ puggalaṃ passati—idha pāṇātipātā paṭivirataṃ ...pe... sammādiṭṭhiṃ, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā passati apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannaṃ.
Vị ấy nói như sau:
So evamāha:
‘Thật sự không có những thiện nghiệp, không có quả báo thiện hạnh. Và ta đã thấy có người ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho … có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục’.
‘natthi kira, bho, kalyāṇāni kammāni, natthi sucaritassa vipāko. Amāhaṃ puggalaṃ addasaṃ—idha pāṇātipātā paṭivirataṃ adinnādānā paṭivirataṃ ...pe... sammādiṭṭhiṃ, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā passāmi apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannan’ti.
Vị ấy nói như sau: ‘Chắc chắn tất cả mọi người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho … có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
So evamāha: ‘yo kira, bho, pāṇātipātā paṭivirato adinnādānā paṭivirato ...pe... sammādiṭṭhi, sabbo so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati.
Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí’.
Ye evaṃ jānanti te sammā jānanti; ye aññathā jānanti, micchā tesaṃ ñāṇan’ti.
Như vậy, điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: ‘Chỉ như vậy mới chân thực, ngoài ra đều là hư vọng’.
Iti so yadeva tassa sāmaṃ ñātaṃ sāmaṃ diṭṭhaṃ sāmaṃ viditaṃ tadeva tattha thāmasā parāmāsā abhinivissa voharati: ‘idameva saccaṃ, moghamaññan’ti.
Ở đây, này Ānanda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau:
Tatrānanda, yvāyaṃ samaṇo vā brāhmaṇo vā evamāha:
‘Chắc chắn có ác nghiệp, có quả báo ác nghiệp’. Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy. .
‘atthi kira, bho, pāpakāni kammāni, atthi duccaritassa vipāko’ti idamassa anujānāmi;
Vị ấy nói như sau:
yampi so evamāha:
‘Tôi đã thấy ở đây có người sát sanh, lấy của không cho … có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục’. Như vậy, Ta cũng chấp nhận cho vị ấy.
‘amāhaṃ puggalaṃ addasaṃ—idha pāṇātipātiṃ adinnādāyiṃ ...pe... micchādiṭṭhiṃ, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā passāmi apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannan’ti idampissa anujānāmi;
Còn nếu vị ấy nói như sau:
yañca kho so evamāha:
‘Chắc chắn tất cả những ai sát sanh, lấy của không cho …; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục’, như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy.
‘yo kira, bho, pāṇātipātī adinnādāyī ...pe... micchādiṭṭhi, sabbo so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjatī’ti idamassa nānujānāmi;
Và nếu vị ấy nói như sau:
yampi so evamāha:
‘Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí’; như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy.
‘ye evaṃ jānanti te sammā jānanti; ye aññathā jānanti, micchā tesaṃ ñāṇan’ti idampissa nānujānāmi;
Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: ‘Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng’. Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao?
yampi so yadeva tassa sāmaṃ ñātaṃ sāmaṃ diṭṭhaṃ sāmaṃ viditaṃ tadeva tattha thāmasā parāmāsā abhinivissa voharati: ‘idameva saccaṃ, moghamaññan’ti idampissa nānujānāmi. Taṃ kissa hetu?
Khác như vậy, này Ānanda, là trí của Như Lai về Ðại phân biệt về nghiệp.
Aññathā hi, ānanda, tathāgatassa mahākammavibhaṅge ñāṇaṃ hoti.
Ở đây, này Ānanda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau:
Tatrānanda, yvāyaṃ samaṇo vā brāhmaṇo vā evamāha:
‘Chắc chắn không có ác nghiệp, không có quả báo ác hạnh’. Như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy.
‘natthi kira, bho, pāpakāni kammāni, natthi duccaritassa vipāko’ti idamassa nānujānāmi;
Và vị ấy nói như sau:
yañca kho so evamāha:
‘Tôi đã thấy ở đây có người sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này’. Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy.
‘amāhaṃ puggalaṃ addasaṃ—idha pāṇātipātiṃ adinnādāyiṃ ...pe... micchādiṭṭhiṃ kāyassa bhedā paraṃ maraṇā passāmi sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannan’ti idamassa anujānāmi;
Còn nếu vị ấy nói như sau:
yañca kho so evamāha:
‘Chắc chắn tất cả những ai sát sanh, lấy của không cho… tất cả sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào thiện thú Thiên giới, cõi đời này’; như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy.
‘yo kira, bho, pāṇātipātī adinnādāyī ...pe... micchādiṭṭhi, sabbo so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjatī’ti idamassa nānujānāmi;
Và nếu vị ấy nói như sau:
yampi so evamāha:
‘Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí’; như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: ‘Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng’. Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao?
‘ye evaṃ jānanti te sammā jānanti; ye aññathā jānanti, micchā tesaṃ ñāṇan’ti idampissa nānujānāmi; yampi so yadeva tassa sāmaṃ ñātaṃ sāmaṃ diṭṭhaṃ sāmaṃ viditaṃ tadeva tattha thāmasā parāmāsā abhinivissa voharati: ‘idameva saccaṃ, moghamaññan’ti idampissa nānujānāmi. Taṃ kissa hetu?
Khác như vậy, này Ānanda, là trí của Như Lai về Ðại phân biệt về nghiệp.
Aññathā hi, ānanda, tathāgatassa mahākammavibhaṅge ñāṇaṃ hoti.
Ở đây, này Ānanda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau:
Tatrānanda, yvāyaṃ samaṇo vā brāhmaṇo vā evamāha:
‘Chắc chắn có thiện nghiệp, có quả báo thiện hạnh’. Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy.
‘atthi kira, bho, kalyāṇāni kammāni, atthi sucaritassa vipāko’ti idamassa anujānāmi;
Và vị ấy nói như sau:
yampi so evamāha:
‘Tôi đã thấy ở đây có người từụ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho … có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này’. Như vậy, Ta cũng chấp nhận cho vị ấy.
‘amāhaṃ puggalaṃ addasaṃ—idha pāṇātipātā paṭivirataṃ adinnādānā paṭivirataṃ ...pe... sammādiṭṭhiṃ, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā passāmi sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannan’ti idampissa anujānāmi;
Còn nếu vị ấy nói như sau:
yañca kho so evamāha:
‘Chắc chắn tất cả những ai từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho … tất cả sau khi thân hoại mạng chung; họ đều sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này’; như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy.
‘yo kira, bho, pāṇātipātā paṭivirato adinnādānā paṭivirato ...pe... sammādiṭṭhi, sabbo so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjatī’ti idamassa nānujānāmi;
Và nếu vị ấy nói như sau:
yampi so evamāha:
‘Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí’; như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: ‘Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng’. Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao?
‘ye evaṃ jānanti te sammā jānanti; ye aññathā jānanti, micchā tesaṃ ñāṇan’ti idampissa nānujānāmi; yampi so yadeva tassa sāmaṃ ñātaṃ sāmaṃ diṭṭhaṃ sāmaṃ viditaṃ tadeva tattha thāmasā parāmāsā abhinivissa voharati: ‘idameva saccaṃ, moghamaññan’ti idampissa nānujānāmi. Taṃ kissa hetu?
Khác như vậy, này Ānanda, là trí của Như Lai về Ðại phân biệt về nghiệp.
Aññathā hi, ānanda, tathāgatassa mahākammavibhaṅge ñāṇaṃ hoti.
Ở đây, này Ānanda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau:
Tatrānanda, yvāyaṃ samaṇo vā brāhmaṇo vā evamāha:
‘Chắc chắn không có thiện nghiệp, không có quả báo thiện hạnh’. Như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy.
‘natthi kira, bho, kalyāṇāni kammāni, natthi sucaritassa vipāko’ti idamassa nānujānāmi;
Và vị ấy nói như sau:
yañca kho so evamāha:
‘Tôi đã thấy ở đây có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho … có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục’. Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy.
‘amāhaṃ puggalaṃ addasaṃ—idha pāṇātipātā paṭivirataṃ adinnādānā paṭivirataṃ ...pe... sammādiṭṭhiṃ, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā passāmi apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannan’ti idamassa anujānāmi;
Còn nếu vị ấy nói như sau:
yañca kho so evamāha:
‘Chắc chắn những ai từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho … có chánh kiến, tất cả sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục’; như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy.
‘yo kira, bho, pāṇātipātā paṭivirato adinnādānā paṭivirato ...pe... sammādiṭṭhi, sabbo so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjatī’ti idamassa nānujānāmi;
Và nếu vị ấy nói như sau: ‘Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh.
yañca kho so evamāha: ‘ye evaṃ jānanti te sammā jānanti;
Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí’; như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy.
ye aññathā jānanti, micchā tesaṃ ñāṇan’ti idampissa nānujānāmi;
Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: ‘Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng’. Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao?
yampi so yadeva tassa sāmaṃ ñātaṃ sāmaṃ diṭṭhaṃ sāmaṃ viditaṃ tadeva tattha thāmasā parāmāsā abhinivissa voharati: ‘idameva saccaṃ, moghamaññan’ti idampissa nānujānāmi. Taṃ kissa hetu?
Khác như vậy, này Ānanda, là trí của Như Lai về Ðại phân biệt về nghiệp.
Aññathā hi, ānanda, tathāgatassa mahākammavibhaṅge ñāṇaṃ hoti.
Ở đây, này Ānanda, người nào sát sanh, lấy của không cho … có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục… Hoặc là một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm lúc trước, hay một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một tà kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt.
Tatrānanda, yvāyaṃ puggalo idha pāṇātipātī adinnādāyī ...pe... micchādiṭṭhi, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati, pubbe vāssa taṃ kataṃ hoti pāpakammaṃ dukkhavedanīyaṃ, pacchā vāssa taṃ kataṃ hoti pāpakammaṃ dukkhavedanīyaṃ, maraṇakāle vāssa hoti micchādiṭṭhi samattā samādinnā.
Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Tena so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati.
Và ai ở đây sát sanh, lấy của không cho … có tà kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.
Yañca kho so idha pāṇātipātī hoti adinnādāyī hoti ...pe... micchādiṭṭhi hoti tassa diṭṭheva dhamme vipākaṃ paṭisaṃvedeti upapajja vā apare vā pariyāye.
Ở đây, này Ānanda, người nào sát sanh, lấy của không cho … có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này … Hoặc là một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm lúc trước, hay một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một chánh kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt.
Tatrānanda, yvāyaṃ puggalo idha pāṇātipātī adinnādāyī ...pe... micchādiṭṭhi kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati, pubbe vāssa taṃ kataṃ hoti kalyāṇakammaṃ sukhavedanīyaṃ, pacchā vāssa taṃ kataṃ hoti kalyāṇakammaṃ sukhavedanīyaṃ, maraṇakāle vāssa hoti sammādiṭṭhi samattā samādinnā.
Do vậy sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
Tena so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati.
Và ai ở đây sát sanh, lấy của không cho … có tà kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.
Yañca kho so idha pāṇātipātī hoti adinnādāyī hoti ...pe... micchādiṭṭhi hoti tassa diṭṭheva dhamme vipākaṃ paṭisaṃvedeti upapajja vā apare vā pariyāye.
Ở đây, này Ānanda, người nào từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho … có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này … Hoặc là một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm từ trước, hay một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một chánh kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt.
Tatrānanda, yvāyaṃ puggalo idha pāṇātipātā paṭivirato adinnādānā paṭivirato ...pe... sammādiṭṭhi, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati, pubbe vāssa taṃ kataṃ hoti kalyāṇakammaṃ sukhavedanīyaṃ, pacchā vāssa taṃ kataṃ hoti kalyāṇakammaṃ sukhavedanīyaṃ, maraṇakāle vāssa hoti sammādiṭṭhi samattā samādinnā.
Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
Tena so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati.
Và ai ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho … có chánh kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại, hay trong một đời khác.
Yañca kho so idha pāṇātipātā paṭivirato hoti adinnādānā paṭivirato hoti ...pe... sammādiṭṭhi hoti, tassa diṭṭheva dhamme vipākaṃ paṭisaṃvedeti upapajja vā apare vā pariyāye.
Ở đây, này Ānanda, người nào từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục… Hoặc là một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm từ trước, hay một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một tà kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt.
Tatrānanda, yvāyaṃ puggalo idha pāṇātipātā paṭivirato adinnādānā paṭivirato ...pe... sammādiṭṭhi, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati, pubbe vāssa taṃ kataṃ hoti pāpakammaṃ dukkhavedanīyaṃ, pacchā vāssa taṃ kataṃ hoti pāpakammaṃ dukkhavedanīyaṃ, maraṇakāle vāssa hoti micchādiṭṭhi samattā samādinnā.
Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Tena so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati.
Và ai ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho … có chánh kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.
Yañca kho so idha pāṇātipātā paṭivirato hoti, adinnādānā paṭivirato hoti ...pe... sammādiṭṭhi hoti, tassa diṭṭheva dhamme vipākaṃ paṭisaṃvedeti upapajja vā apare vā pariyāye.
Như vậy, này Ānanda, có nghiệp vô hữu tợ vô hữu, có nghiệp vô hữu tợ hữu, có nghiệp hữu tợ hữu, có nghiệp hữu tợ vô hữu”.
Iti kho, ānanda, atthi kammaṃ abhabbaṃ abhabbābhāsaṃ, atthi kammaṃ abhabbaṃ bhabbābhāsaṃ, atthi kammaṃ bhabbañceva bhabbābhāsañca, atthi kammaṃ bhabbaṃ abhabbābhāsan”ti.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ānanda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Idamavoca bhagavā. Attamano āyasmā ānando bhagavato bhāsitaṃ abhinandīti.
Mahākammavibhaṅgasuttaṃ niṭṭhitaṃ chaṭṭhaṃ.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt