Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Majjhima Nikāya - Trung Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trung Bộ 147

Trung Bộ 147
Majjhima Nikāya 147

Tiểu Kinh Giáo Giới La-Hầu-La
Cūḷarāhulovādasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời, Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà lâm) tại tinh xá ông Anāthapiṇḍika.
ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Rồi Thế Tôn trong khi nhàn tịnh độc cư, khởi lên tư niệm sau đây:
Atha kho bhagavato rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi:

“Ðã thuần thục là những pháp đã đưa đến giải thoát cho Rāhula.
“paripakkā kho rāhulassa vimuttiparipācanīyā dhammā.

Vậy Ta hãy huấn luyện Rāhula hơn nữa trong sự đoạn tận các lậu hoặc”.
Yannūnāhaṃ rāhulaṃ uttariṃ āsavānaṃ khaye vineyyan”ti.

Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sāvatthī để khất thực.
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisi.

Sau khi đi khất thực ở Sāvatthī, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, Thế Tôn cho gọi Tôn giả Rāhula và nói:
Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto āyasmantaṃ rāhulaṃ āmantesi:

“Này Rāhula, hãy cầm tọa cụ, chúng ta sẽ đi đến Andhavana để nghỉ ban ngày”.
“gaṇhāhi, rāhula, nisīdanaṃ; yena andhavanaṃ tenupasaṅkamissāma divāvihārāyā”ti.

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Tôn giả Rāhula vâng đáp Thế Tôn, cầm lấy tọa cụ và đi theo sau lưng Thế Tôn.
“Evaṃ, bhante”ti kho āyasmā rāhulo bhagavato paṭissutvā nisīdanaṃ ādāya bhagavantaṃ piṭṭhito piṭṭhito anubandhi.

Lúc bấy giờ, hàng ngàn chư Thiên đi theo Thế Tôn và nghĩ rằng:
Tena kho pana samayena anekāni devatāsahassāni bhagavantaṃ anubandhāni honti:

“Hôm nay, Thế Tôn sẽ huấn luyện cho Tôn giả Rāhula hơn nữa trong sự đoạn tận các lậu hoặc”.
“ajja bhagavā āyasmantaṃ rāhulaṃ uttariṃ āsavānaṃ khaye vinessatī”ti.

Rồi Thế Tôn đi sâu vào rừng Hắc Lâm và ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn dưới một gốc cây.
Atha kho bhagavā andhavanaṃ ajjhogāhetvā aññatarasmiṃ rukkhamūle paññatte āsane nisīdi.

Tôn giả Rāhula đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên.
Āyasmāpi kho rāhulo bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.

Thế Tôn nói với Tôn giả Rāhula đang ngồi một bên:
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho āyasmantaṃ rāhulaṃ bhagavā etadavoca:

“Này Rāhula, Ông nghĩ thế nào? Con mắt là thường hay vô thường?”
“Taṃ kiṃ maññasi, rāhula, cakkhu niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là vô thường”.
“Aniccaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là khổ.”
“Dukkhaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ: ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.

“Này Rāhula. Ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?”
“Taṃ kiṃ maññasi, rāhula, rūpā niccā vā aniccā vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là vô thường”.
“Aniccā, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là khổ”.
“Dukkhaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ: ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.

“Này Rāhula. Ông nghĩ thế nào? Nhãn thức là thường hay vô thường?”
“Taṃ kiṃ maññasi, rāhula, cakkhuviññāṇaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là vô thường”.
“Aniccaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là khổ”.
“Dukkhaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ: ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.

“Này Rāhula. Ông nghĩ thế nào? Nhãn xúc là thường hay vô thường?”
“Taṃ kiṃ maññasi, rāhula, cakkhusamphasso nicco vā anicco vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là vô thường”.
“Anicco, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là khổ”.
“Dukkhaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ: ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.

“Này Rāhula. Ông nghĩ thế nào? Do duyên nhãn xúc này, được khởi lên thọ, tưởng, hành, thức; các pháp được khởi lên ấy là thường hay vô thường?”
“Taṃ kiṃ maññasi, rāhula, yamidaṃ cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ tampi niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là vô thường”.
“Aniccaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là khổ”.
“Dukkhaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ: ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.

“Này Rāhula, Ông nghĩ thế nào? Tai là thường hay vô thường?”
“Taṃ kiṃ maññasi rāhula, sotaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là vô thường …
“Aniccaṃ, bhante ...pe...

Mũi là thường hay vô thường?”
ghānaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là vô thường …
“Aniccaṃ, bhante ...pe...

Lưỡi là thường hay vô thường?”
jivhā niccā vā aniccā vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là vô thường …
“Aniccā, bhante …

Thân là thường hay vô thường?”
kāyo nicco vā anicco vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là vô thường …
“Anicco, bhante …

Ý là thường hay vô thường?”
mano nicco vā anicco vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là vô thường”.
“Anicco, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là khổ”.
“Dukkhaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ: ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.

“Này Rāhula, Ông nghĩ thế nào? Pháp là thường hay vô thường?”
“Taṃ kiṃ maññasi rāhula, dhammā niccā vā aniccā vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là vô thường”.
“Aniccā, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là khổ”.
“Dukkhaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ: ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.

“Này Rāhula, Ông nghĩ thế nào? Ý thức là thường hay vô thường?”
“Taṃ kiṃ maññasi rāhula, manoviññāṇaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là vô thường”.
“Aniccaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là khổ”.
“Dukkhaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ: ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.

“Này Rāhula, Ông nghĩ thế nào? Ý xúc là thường hay vô thường?”
“Taṃ kiṃ maññasi rāhula, manosamphasso nicco vā anicco vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là vô thường”.
“Anicco, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là khổ”.
“Dukkhaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ: ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.

“Này Rāhula, Ông nghĩ thế nào?
“Taṃ kiṃ maññasi, rāhula,

Do duyên ý xúc này, được khởi lên thọ, tưởng, hành, thức; các pháp được khởi lên ấy là thường hay vô thường?”
yamidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ, tampi niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là vô thường”.
“Aniccaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, là khổ”.
“Dukkhaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ: ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.

“Này Rāhula, do thấy vậy, vị Ða văn Thánh đệ tử yếm ly con mắt, yếm ly các sắc, yếm ly nhãn thức, yếm ly nhãn xúc, do duyên nhãn xúc này, được khởi lên thọ, tưởng, hành, thức. Vị ấy yếm ly pháp được khởi lên ấy.
“Evaṃ passaṃ, rāhula, sutavā ariyasāvako cakkhusmiṃ nibbindati, rūpesu nibbindati, cakkhuviññāṇe nibbindati, cakkhusamphasse nibbindati, yamidaṃ cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ tasmimpi nibbindati.

Vị ấy yếm ly tai, yếm ly các tiếng…
Sotasmiṃ nibbindati, saddesu nibbindati ...pe...

yếm ly mũi, yếm ly các hương…
ghānasmiṃ nibbindati, gandhesu nibbindati …

yếm ly lưỡi, yếm ly các vị…
jivhāya nibbindati, rasesu nibbindati …

yếm ly thân, yếm ly các xúc,…
kāyasmiṃ nibbindati, phoṭṭhabbesu nibbindati …

yếm ly ý, yếm ly các pháp, yếm ly ý thức, yếm ly ý xúc. Do duyên ý xúc này, được khởi lên thọ, tưởng, hành, thức. Vị ấy yếm ly các pháp được khởi lên ấy. Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát là sự hiểu biết: ‘Ta đã được giải thoát’.
manasmiṃ nibbindati, dhammesu nibbindati, manoviññāṇe nibbindati, manosamphasse nibbindati, yamidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ tasmimpi nibbindati. Nibbindaṃ virajjati, virāgā vimuccati. Vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti.

Và vị ấy biết: ‘Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa’.”
‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānātī”ti.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Idamavoca bhagavā.

Tôn giả Rāhula, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Attamano āyasmā rāhulo bhagavato bhāsitaṃ abhinandīti.

Trong khi sự thuyết giảng này được nói lên, tâm của Tôn giả Rāhula được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
Imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne āyasmato rāhulassa anupādāya āsavehi cittaṃ vimucci.

Và đối với hàng ngàn chư Thiên ấy, được khởi lên pháp nhãn ly trần, vô cấu:
Tāsañca anekānaṃ devatāsahassānaṃ virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi:

“Phàm cái gì được khởi lên, tất cả đều bị diệt tận”.
“yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman”ti.

Cūḷarāhulovādasuttaṃ niṭṭhitaṃ pañcamaṃ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt