Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Majjhima Nikāya - Trung Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trung Bộ 23

Trung Bộ 23
Majjhima Nikāya 23

Kinh Gò Mối
Vammikasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī, tại Jetavana, vườn ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Kumara Kassapa trú tại Hắc Lâm (Rừng Đen).
ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena āyasmā kumārakassapo andhavane viharati.

Rồi một vị Thiên, đêm đã gần tàn, với hào quang rực rỡ chiếu sáng toàn thể Hắc Lâm, đến chỗ Tôn giả Kumara Kassapa ở, sau khi đến, bèn đứng một bên. Sau khi đứng một bên, vị Thiên ấy nói với Tôn giả Kumara Kassapa:
Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ andhavanaṃ obhāsetvā yenāyasmā kumārakassapo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā āyasmantaṃ kumārakassapaṃ etadavoca:

“Tỷ-kheo, Tỷ-kheo! Gò mối này ban đêm phun khói, ban ngày chiếu sáng.
“Bhikkhu bhikkhu, ayaṃ vammiko rattiṃ dhūmāyati, divā pajjalati.

Một Bà-la-môn nói như sau: “Này kẻ trí, hãy cầm gươm và đào lên”.
Brāhmaṇo evamāha: ‘abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyā’ti.

Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một then cửa: “Thưa Tôn giả, một then cửa”.
Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa laṅgiṃ: ‘laṅgī, bhadante’ti.

Vị Bà-la-môn nói: “Này kẻ trí, hãy lấy then cửa lên; cầm gươm đào thêm”.
Brāhmaṇo evamāha: ‘ukkhipa laṅgiṃ; abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyā’ti.

Người có trí cầm gươm đào lên, thấy con nhái: “Thưa Tôn giả, một con nhái”.
Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa uddhumāyikaṃ: ‘Uddhumāyikā, bhadante’ti.

Vị Bà-la-môn nói: “Này kẻ trí, hãy đem con nhái lên; cầm gươm đào thêm”.
Brāhmaṇo evamāha: ‘ukkhipa uddhumāyikaṃ; abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyā’ti.

Người có trí cầm gươm đào lên, thấy con đường hai ngã: “Thưa Tôn giả, một con đường hai ngã”.
Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa dvidhāpathaṃ. ‘Dvidhāpatho, bhadante’ti.

Vị Bà-la-môn nói: “Này kẻ trí hãy lấy con đường hai ngã lên; cầm gươm đào thêm”.
Brāhmaṇo evamāha: ‘ukkhipa dvidhāpathaṃ; abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyā’ti.

Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một đồ lọc sữa: “Thưa Tôn giả, một đồ lọc sữa”.
Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa caṅgavāraṃ. ‘Caṅgavāro, bhadante’ti.

Vị Bà-la-môn nói: “Hãy lấy đồ lọc sữa lên; cầm gươm đào thêm”.
Brāhmaṇo evamāha: ‘ukkhipa caṅgavāraṃ; abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyā’ti.

Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một con rùa: “Thưa Tôn giả, một con rùa”.
Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa kummaṃ: ‘Kummo, bhadante’ti.

Vị Bà-la-môn nói: “Này kẻ trí, hãy lấy con rùa lên; cầm gươm đào thêm”.
Brāhmaṇo evamāha: ‘ukkhipa kummaṃ; abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyā’ti.

Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một con dao phay: “Thưa Tôn giả, một con dao phay”.
Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa asisūnaṃ: ‘Asisūnā, bhadante’ti.

Vị Bà-la-môn nói: “Này kẻ trí, hãy lấy con dao phay lên; cầm gươm đào thêm”.
Brāhmaṇo evamāha: ‘ukkhipa asisūnaṃ; abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyā’ti.

Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một miếng thịt: “Thưa Tôn giả một miếng thịt”.
Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa maṃsapesiṃ: ‘Maṃsapesi, bhadante’ti.

Vị Bà-la-môn nói: “Này kẻ trí, hãy lấy miếng thịt lên; cầm gươm đào thêm”.
Brāhmaṇo evamāha: ‘ukkhipa maṃsapesiṃ; abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyā’ti.

Người có trí cầm gươm đào lên, thấy con rắn hổ: “Thưa Tôn giả, con rắn hổ”.
Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa nāgaṃ: ‘Nāgo, bhadante’ti.

Vị Bà-la-môn nói: “Hãy để con rắn hổ yên, chớ đụng chạm con rắn hổ, hãy đảnh lễ con rắn hổ”.
Brāhmaṇo evamāha: ‘tiṭṭhatu nāgo, mā nāgaṃ ghaṭṭesi; namo karohi nāgassā’ti.

Này Tỷ-kheo, hãy đến chỗ Thế Tôn ở và hỏi những câu hỏi ấy. Thế Tôn trả lời Tôn giả như thế nào, hãy như vậy thọ trì.
Ime kho tvaṃ, bhikkhu, pañhe bhagavantaṃ upasaṅkamitvā puccheyyāsi, yathā ca te bhagavā byākaroti tathā naṃ dhāreyyāsi.

Tỷ-kheo, Ta không thấy ai trên cõi đời, với chư Thiên, các Ma vương, với Phạm thiên, các chúng Sa-môn và Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người có thể hướng tâm để trả lời những câu hỏi ấy, trừ Như Lai, đệ tử Như Lai hay những ai đã được nghe hai vị này.”
Nāhaṃ taṃ, bhikkhu, passāmi sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya, yo imesaṃ pañhānaṃ veyyākaraṇena cittaṃ ārādheyya aññatra tathāgatena vā, tathāgatasāvakena vā, ito vā pana sutvā”ti—

Vị Thiên ấy nói như vậy. Sau khi nói xong như vậy, vị ấy biến mất ở nơi đây.
Idamavoca sā devatā. Idaṃ vatvā tatthevantaradhāyi.

Rồi Tôn giả Kumara Kassapa, sau khi đêm ấy đã mãn, đến tại chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến xong, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Kumara Kassapa bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā kumārakassapo tassā rattiyā accayena yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā kumārakassapo bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, đêm nay, một vị Thiên, đêm đã gần tàn, với hào quang rực rỡ chiếu sáng toàn thể Andhavana, đến chỗ con ở, sau khi đến liền đứng một bên. Khi đứng một bên, vị Thiên ấy nói với con:
“imaṃ, bhante, rattiṃ aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ andhavanaṃ obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho, bhante, sā devatā maṃ etadavoca:

Tỷ-kheo, Tỷ-kheo! Gò mối này, ban đêm phun khói, ban ngày chiếu sáng.
‘bhikkhu bhikkhu, ayaṃ vammiko rattiṃ dhūmāyati, divā pajjalati.

Một vị Bà-la-môn nói như sau: “Này kẻ trí, hãy cầm gươm đào lên”.
Brāhmaṇo evamāha: “abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyā”ti.

Người có trí cầm gươm, đào lên thấy một then cửa… (như trên)… đệ tử Như Lai hay những ai đã được nghe hai vị này”.
Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya ...pe... ito vā pana sutvā’ti.

Bạch Thế Tôn, vị Thiên ấy nói như vậy, nói xong liền biến mất tại chỗ ấy.
Idamavoca, bhante, sā devatā. Idaṃ vatvā tatthevantaradhāyi.

“Bạch Thế Tôn, gò mối là gì, cái gì phun khói ban đêm, cái gì chiếu sáng ban ngày, ai là Bà-la-môn, ai là người có trí, cái gì là cây gươm, cái gì là đào lên, cái gì là then cửa, cái gì là con nhái, cái gì là con đường hai ngã, cái gì là đồ lọc sữa, cái gì là con rùa, cái gì là con dao phay, cái gì là miếng thịt, cái gì là con rắn hổ?”
Ko nu kho, bhante, vammiko, kā rattiṃ dhūmāyanā, kā divā pajjalanā, ko brāhmaṇo, ko sumedho, kiṃ satthaṃ, kiṃ abhikkhaṇaṃ, kā laṅgī, kā uddhumāyikā, ko dvidhāpatho, kiṃ caṅgavāraṃ, ko kummo, kā asisūnā, kā maṃsapesi, ko nāgo”ti?

“Này Tỷ-kheo, gò mối là đồng nghĩa với cái thân do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt.
“‘Vammiko’ti kho, bhikkhu, imassetaṃ cātumahābhūtikassa kāyassa adhivacanaṃ, mātāpettikasambhavassa odanakummāsūpacayassa anicca-ucchādana-parimaddana-bhedana-viddhaṃsana-dhammassa.

Này Tỷ-kheo, cái gì thuộc về công việc ban ngày, ban đêm suy tầm, suy nghĩ, như vậy là ban đêm phun khói.
Yaṃ kho, bhikkhu, divā kammante ārabbha rattiṃ anuvitakketi anuvicāreti—ayaṃ rattiṃ dhūmāyanā.

Này Tỷ-kheo, cái gì sau khi suy tầm, suy tư ban đêm, ban ngày đem ra thực hành, về thân, về lời nói, về ý, như vậy là ban ngày chói sáng.
Yaṃ kho, bhikkhu, rattiṃ anuvitakketvā anuvicāretvā divā kammante payojeti kāyena vācāya manasā—ayaṃ divā pajjalanā.

Này Tỷ-kheo, Bà-la-môn là đồng nghĩa với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
‘Brāhmaṇo’ti kho, bhikkhu, tathāgatassetaṃ adhivacanaṃ arahato sammāsambuddhassa.

Này Tỷ-kheo, người có trí là đồng nghĩa với Tỷ-kheo hữu học.
‘Sumedho’ti kho, bhikkhu, sekkhassetaṃ bhikkhuno adhivacanaṃ.

Này Tỷ-kheo, cái gươm là đồng nghĩa với trí tuệ của bậc Thánh.
‘Satthan’ti kho, bhikkhu, ariyāyetaṃ paññāya adhivacanaṃ.

Này Tỷ-kheo, đào lên là đồng nghĩa với tinh tấn, tinh cần.
‘Abhikkhaṇan’ti kho, bhikkhu, vīriyārambhassetaṃ adhivacanaṃ.

Này Tỷ-kheo, cái then cửa là đồng nghĩa với vô minh;
‘Laṅgī’ti kho, bhikkhu, avijjāyetaṃ adhivacanaṃ.

đem then cửa lên là từ bỏ vô minh này;
Ukkhipa laṅgiṃ, pajaha avijjaṃ;

kẻ có trí, cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyāti ayametassa attho.

Này Tỷ-kheo, con nhái là đồng nghĩa với phẫn nộ hiềm hận;
‘Uddhumāyikā’ti kho, bhikkhu, kodhūpāyāsassetaṃ adhivacanaṃ.

đem con nhái lên là từ bỏ phẫn nộ hiềm hận này;
Ukkhipa uddhumāyikaṃ, pajaha kodhūpāyāsaṃ;

kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyāti ayametassa attho.

Này Tỷ-kheo, con đường hai ngã là đồng nghĩa với nghi hoặc;
‘Dvidhāpatho’ti kho, bhikkhu, vicikicchāyetaṃ adhivacanaṃ.

đem con đường hai ngã lên là từ bỏ nghi hoặc này;
Ukkhipa dvidhāpathaṃ, pajaha vicikicchaṃ;

kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyāti ayametassa attho.

Này Tỷ-kheo, đồ lọc sữa là đồng nghĩa với năm triền cái:
‘Caṅgavāran’ti kho, bhikkhu, pañcannetaṃ nīvaraṇānaṃ adhivacanaṃ, seyyathidaṃ—

dục tham triền cái, sân triền cái, hôn trầm thụy miên triền cái, trạo cử hối quá triền cái, nghi hoặc triền cái;
kāmacchanda-nīvaraṇassa, byāpāda-nīvaraṇassa, thinamiddha-nīvaraṇassa, uddhaccakukkucca-nīvaraṇassa, vicikicchā-nīvaraṇassa.

đem đồ lọc sữa lên là từ bỏ năm triền cái này;
Ukkhipa caṅgavāraṃ, pajaha pañca nīvaraṇe;

kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyāti ayametassa attho.

Này Tỷ-kheo, con rùa là đồng nghĩa với năm thủ uẩn, tức là
‘Kummo’ti kho, bhikkhu, pañcannetaṃ upādānakkhandhānaṃ adhivacanaṃ, seyyathidaṃ—

sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn;
rūpupādānakkhandhassa, vedanupādānakkhandhassa, saññupādānakkhandhassa, saṅkhārupādānakkhandhassa, viññāṇupādānakkhandhassa.

đem con rùa lên là từ bỏ năm thủ uẩn này;
Ukkhipa kummaṃ, pajaha pañcupādānakkhandhe;

kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyāti ayametassa attho.

Này Tỷ-kheo, con dao phay là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng, tức là
‘Asisūnā’ti kho, bhikkhu, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ—

các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn.
cakkhuviññeyyānaṃ rūpānaṃ iṭṭhānaṃ kantānaṃ manāpānaṃ piyarūpānaṃ kāmūpasaṃhitānaṃ rajanīyānaṃ,

Các tiếng do tai nhận thức …
sotaviññeyyānaṃ saddānaṃ ...pe...

Các hương do mũi nhận thức …
ghānaviññeyyānaṃ gandhānaṃ ...pe...

Các vị do lưỡi nhận thức …
jivhāviññeyyānaṃ rasānaṃ ...pe...

Các xúc do thân cảm xúc, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn;
kāyaviññeyyānaṃ phoṭṭhabbānaṃ iṭṭhānaṃ kantānaṃ manāpānaṃ piyarūpānaṃ kāmūpasaṃhitānaṃ rajanīyānaṃ.

lấy con dao phay lên là từ bỏ năm dục trưởng dưỡng này,
Ukkhipa asisūnaṃ, pajaha pañca kāmaguṇe;

kẻ có trí, cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyāti ayametassa attho.

Này Tỷ-kheo, miếng thịt là đồng nghĩa với hỷ tham;
‘Maṃsapesī’ti kho, bhikkhu, nandīrāgassetaṃ adhivacanaṃ.

lấy miếng thịt lên là từ bỏ hỷ tham này;
Ukkhipa maṃsapesiṃ, pajaha nandīrāgaṃ;

kẻ có trí, cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyāti ayametassa attho.

Này Tỷ-kheo, con rắn hổ là đồng nghĩa với vị Tỷ-kheo đã diệt trừ các lậu hoặc;
‘Nāgo’ti kho, bhikkhu, khīṇāsavassetaṃ bhikkhuno adhivacanaṃ.

hãy để con rắn hổ yên, chớ đụng chạm con rắn hổ, hãy đảnh lễ con rắn hổ, là ý nghĩa này.
Tiṭṭhatu nāgo, mā nāgaṃ ghaṭṭesi; namo karohi nāgassāti ayametassa attho”ti.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Idamavoca bhagavā. Attamano āyasmā kumārakassapo bhagavato bhāsitaṃ abhinandīti.

Vammikasuttaṃ niṭṭhitaṃ tatiyaṃ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt