Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Majjhima Nikāya - Trung Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trung Bộ 37

Trung Bộ 37
Majjhima Nikāya 37

Tiểu Kinh Đoạn Tận Ái
Cūḷataṇhāsaṅkhayasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời, Thế Tôn ở tại Sāvatthī (Xá-vệ), Ðông Viên (Pubbarama), giảng đường Lộc Mẫu (Migaramatu).
ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati pubbārāme migāramātupāsāde.

Rồi Thiên chủ Sakka đến tại chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Thiên chủ Sakka đứng một bên, bạch Thế Tôn:
Atha kho sakko devānamindo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho sakko devānamindo bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, nói một cách tóm tắt, đến mức độ nào, một Tỷ-kheo ái tận giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người?”
“kittāvatā nu kho, bhante, bhikkhu saṅkhittena taṇhāsaṅkhayavimutto hoti accantaniṭṭho accantayogakkhemī accantabrahmacārī accantapariyosāno seṭṭho devamanussānan”ti?

“Ở đây, này Thiên chủ, Tỷ-kheo được nghe như sau:
“Idha, devānaminda, bhikkhuno sutaṃ hoti:

“Thật không xứng đáng, nếu có thiên vị đối với tất cả pháp”.
‘sabbe dhammā nālaṃ abhinivesāyā’ti.

Này Thiên chủ, nếu Tỷ-kheo được nghe như sau:
Evañcetaṃ, devānaminda, bhikkhuno sutaṃ hoti:

“Thật không xứng đáng, nếu có thiên vị đối với tất cả pháp”,
‘sabbe dhammā nālaṃ abhinivesāyā’ti.

vị ấy biết rõ tất cả pháp. Sau khi biết rõ tất cả pháp, vị ấy biết một cách rốt ráo tất cả pháp. Do biết một cách rốt ráo tất cả pháp, nếu có một cảm thọ nào, lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ,
So sabbaṃ dhammaṃ abhijānāti; sabbaṃ dhammaṃ abhiññāya sabbaṃ dhammaṃ parijānāti; sabbaṃ dhammaṃ pariññāya yaṃ kiñci vedanaṃ vedeti—

vị ấy sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy.
sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā, so tāsu vedanāsu aniccānupassī viharati, virāgānupassī viharati, nirodhānupassī viharati, paṭinissaggānupassī viharati.

Vị ấy nhờ sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy, nên không chấp trước một vật gì ở đời;
So tāsu vedanāsu aniccānupassī viharanto, virāgānupassī viharanto, nirodhānupassī viharanto, paṭinissaggānupassī viharanto na kiñci loke upādiyati.

do không chấp trước nên không phiền não, do không phiền não, vị ấy chứng đạt Niết-bàn.
Anupādiyaṃ na paritassati, aparitassaṃ paccattaññeva parinibbāyati:

Vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa”.
‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāti.

Này Thiên chủ, một cách tóm tắt, đến mức độ như vậy, một Tỷ-Kheo ái tận giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người.”
Ettāvatā kho, devānaminda, bhikkhu saṅkhittena taṇhāsaṅkhayavimutto hoti accantaniṭṭho accantayogakkhemī accantabrahmacārī accantapariyosāno seṭṭho devamanussānan”ti.

Rồi Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn thuyết giảng, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ.
Atha kho sakko devānamindo bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyi.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahāmoggallāna (Ðại Mục-kiền liên) ngồi cách Thế Tôn không xa.
Tena kho pana samayena āyasmā mahāmoggallāno bhagavato avidūre nisinno hoti.

Rồi Tôn giả Mahāmoggallāna suy nghĩ:
Atha kho āyasmato mahāmoggallānassa etadahosi:

“Không hiểu Dạ-xoa (Yakkaha) kia, sau khi hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, có tín thọ hay không?
“kiṃ nu kho so yakkho bhagavato bhāsitaṃ abhisamecca anumodi udāhu no;

Ta hãy tìm biết Dạ-xoa kia, sau khi hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, có tín thọ hay không?”
yannūnāhaṃ taṃ yakkhaṃ jāneyyaṃ—yadi vā so yakkho bhagavato bhāsitaṃ abhisamecca anumodi yadi vā no”ti?

Rồi Tôn giả Mahāmoggallāna, như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, biến mất ở Ðông Viên Lộc Mẫu giảng đường và hiện ra ở giữa chư thiên cõi trời Ba mươi ba.
Atha kho āyasmā mahāmoggallāno—seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya; evameva—pubbārāme migāramātupāsāde antarahito devesu tāvatiṃsesu pāturahosi.

Lúc bấy giờ Thiên chủ Sakka, với đầy đủ năm trăm nhạc khí chư thiên, đang vui chơi tại vườn Nhất bạch liên.
Tena kho pana samayena sakko devānamindo ekapuṇḍarīke uyyāne dibbehi pañcahi tūriyasatehi samappito samaṅgībhūto paricāreti.

Thiên chủ Sakka thấy Tôn giả Mahāmoggallāna từ xa đến,
Addasā kho sakko devānamindo āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ dūratova āgacchantaṃ.

bảo năm trăm nhạc khí chư thiên dừng nghỉ, đi đến Tôn giả Mahāmoggallāna, sau khi đến, thưa với Tôn giả Mahāmoggallāna:
Disvāna tāni dibbāni pañca tūriyasatāni paṭippaṇāmetvā yenāyasmā mahāmoggallāno tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ etadavoca:

“Hãy đến đây, Thiện hữu Moggallāna; thiện lai, Thiện hữu Moggallāna!
“ehi kho, mārisa moggallāna, svāgataṃ, mārisa moggallāna.

Này Thiện Hữu Moggallāna, lâu lắm Thiện hữu mới có dịp đến đây.
Cirassaṃ kho, mārisa moggallāna, imaṃ pariyāyaṃ akāsi yadidaṃ idhāgamanāya.

Hãy ngồi, Thiện hữu Moggallāna, trên chỗ đã soạn sẵn”.
Nisīda, mārisa moggallāna, idamāsanaṃ paññattan”ti.

Tôn giả MahaMoggallāna, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn.
Nisīdi kho āyasmā mahāmoggallāno paññatte āsane.

Còn Thiên chủ Sakka lấy một ghế thấp khác và ngồi xuống một bên.
Sakkopi kho devānamindo aññataraṃ nīcaṃ āsanaṃ gahetvā ekamantaṃ nisīdi.

Rồi Tôn giả MahaMoggallāna nói với Thiên chủ Sakka đang ngồi xuống một bên:
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho sakkaṃ devānamindaṃ āyasmā mahāmoggallāno etadavoca:

“Này Kosiya, về lời thuyết giảng mà Thế Tôn đã nói cho Ông một cách tóm tắt?
“yathā kathaṃ pana kho, kosiya, bhagavā saṅkhittena taṇhāsaṅkhayavimuttiṃ abhāsi?

Thật tốt lành cho chúng tôi, nếu được nghe chỉ một phần lời thuyết giảng ấy.”
Sādhu mayampi etissā kathāya bhāgino assāma savanāyā”ti.

“Thiện hữu Moggallāna, chúng tôi bận nhiều công việc, chúng tôi có nhiều việc phải làm, việc làm cho chúng tôi và việc làm cho chư thiên ở cõi trời Ba mươi ba.
“Mayaṃ kho, mārisa moggallāna, bahukiccā bahukaraṇīyā—appeva sakena karaṇīyena, api ca devānaṃyeva tāvatiṃsānaṃ karaṇīyena.

Lại nữa, này Thiện hữu Moggallāna, lời thuyết giảng ấy được khéo nghe, khéo nắm vững , khéo suy tư, khéo thẩm lự nên không thể mau quên được.
Api ca, mārisa moggallāna, sussutaṃyeva hoti suggahitaṃ sumanasikataṃ sūpadhāritaṃ, yaṃ no khippameva antaradhāyati.

Này Thiện hữu Moggallāna, xưa kia phát khởi chiến tranh giữa chư Thiên và chúng Asura (A-tu-la).
Bhūtapubbaṃ, mārisa moggallāna, devāsurasaṅgāmo samupabyūḷho ahosi.

Này Thiện hữu Moggallāna, trong trận chiến này, chư Thiên thắng, chúng Asura bại.
Tasmiṃ kho pana, mārisa moggallāna, saṅgāme devā jiniṃsu, asurā parājiniṃsu.

Này thiện hữu Moggallāna, sau khi thắng trận chiến ấy và nhân dịp thắng trận, chúng tôi, sau khi trở về, cho xây dựng một lâu đài tên là Vejayanta (Tối Thắng Ðiện).
So kho ahaṃ, mārisa moggallāna, taṃ saṅgāmaṃ abhivijinitvā vijitasaṅgāmo tato paṭinivattitvā vejayantaṃ nāma pāsādaṃ māpesiṃ.

Này Thiện hữu Moggallāna, lâu đài Vejayanta có đến một trăm vọng tháp,
Vejayantassa kho, mārisa moggallāna, pāsādassa ekasataṃ niyyūhaṃ.

trong mỗi vọng tháp có bảy ngôi nhà có hình tam giác,
Ekekasmiṃ niyyūhe satta satta kūṭāgārasatāni.

trong mỗi nhà tam giác có bảy tiên nữ,
Ekamekasmiṃ kūṭāgāre satta satta accharāyo.

và mỗi tiên nữ có đến bảy thị nữ.
Ekamekissā accharāya satta satta paricārikāyo.

Này thiện hữu Moggallāna, Thiện hữu có muốn xem những điều khả ái của lâu đài Vejayanta không?”
Iccheyyāsi no tvaṃ, mārisa moggallāna, vejayantassa pāsādassa rāmaṇeyyakaṃ daṭṭhun”ti?

Tôn giả Mahāmoggallāna im lặng nhận lời.
Adhivāsesi kho āyasmā mahāmoggallāno tuṇhībhāvena.

Rồi Thiên chủ Sakka cùng với đại vương Vessavaṇa để Tôn giả Mahāmoggallāna đi trước và đi đến lâu đài Vejayanta.
Atha kho sakko ca devānamindo vessavaṇo ca mahārājā āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ purakkhatvā yena vejayanto pāsādo tenupasaṅkamiṃsu.

Các thị nữ của Thiên chủ Sakka thấy Tôn giả Mahāmoggallāna đi từ xa đến, sau khi thấy, liền hổ thẹn, bẽn lẽn, rồi bước vào phòng của mình.
Addasaṃsu kho sakkassa devānamindassa paricārikāyo āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ dūratova āgacchantaṃ; disvā ottappamānā hirīyamānā sakaṃ sakaṃ ovarakaṃ pavisiṃsu.

Ví như cô dâu khi thấy cha chồng liền hổ thẹn, bẽn lẽn;
Seyyathāpi nāma suṇisā sasuraṃ disvā ottappati hirīyati;

cũng như vậy, các thị nữ của Thiên chủ Sakka, khi thấy Tôn giả Mahāmoggallāna liền hổ thẹn, bẽn lẽn, vào phòng riêng của mình.
evameva sakkassa devānamindassa paricārikāyo āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ disvā ottappamānā hirīyamānā sakaṃ sakaṃ ovarakaṃ pavisiṃsu.

Rồi Thiên chủ Sakka và đại vương Vessavaṇa đưa Tôn giả Mahāmoggallāna đi thăm và xem khắp lâu đài Vejayanta:
Atha kho sakko ca devānamindo vessavaṇo ca mahārājā āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ vejayante pāsāde anucaṅkamāpenti anuvicarāpenti:

“Này Thiện hữu Moggallāna, xem điều khả ái này của lâu đài Vejayanta;
“idampi, mārisa moggallāna, passa vejayantassa pāsādassa rāmaṇeyyakaṃ;

xem điều khả ái này của lâu đài Vejayanta.”
idampi, mārisa moggallāna, passa vejayantassa pāsādassa rāmaṇeyyakan”ti.

“Cái này chói sáng nhờ các công đức do Tôn giả Kosiya đã làm thời xưa;
“Sobhati idaṃ āyasmato kosiyassa, yathā taṃ pubbe katapuññassa.

và loài Người, khi thấy cái gì khả ái liền nói:
Manussāpi kiñcideva rāmaṇeyyakaṃ disvā evamāhaṃsu:

‘Thật sự, cái này chói sáng từ chư thiên cõi trời Ba mươi ba’.
‘sobhati vata bho yathā devānaṃ tāvatiṃsānan’ti.

Cái này chói sáng nhờ các công đức do Tôn giả Kosiya đã làm thời xưa.”
Tayidaṃ āyasmato kosiyassa sobhati, yathā taṃ pubbe katapuññassā”ti.

Rồi Tôn giả Mahāmoggallāna suy nghĩ:
Atha kho āyasmato mahāmoggallānassa etadahosi:

“Dạ-xoa này sống phóng dật một cách quá đáng.
“atibāḷhaṃ kho ayaṃ yakkho pamatto viharati.

Ta hãy làm cho vị này hoảng sợ”.
Yannūnāhaṃ imaṃ yakkhaṃ saṃvejeyyan”ti.

Tôn giả Mahāmoggallāna liền thị hiện thần thông lực, dùng ngón chân cái làm cho lầu Vejayanta rung động, chuyển động, chấn động mạnh.
Atha kho āyasmā mahāmoggallāno tathārūpaṃ iddhābhisaṅkhāraṃ abhisaṅkhāsi yathā vejayantaṃ pāsādaṃ pādaṅguṭṭhakena saṅkampesi sampakampesi sampavedhesi.

Thiên chủ Sakka, đại vương Sessavaṇa và chư thiên ở cõi trời Ba mươi ba, tâm cảm thấy kỳ diệu, hy hữu:
Atha kho sakko ca devānamindo, vessavaṇo ca mahārājā, devā ca tāvatiṃsā acchariyabbhutacittajātā ahesuṃ:

“Thật kỳ diệu thay, thật hy hữu thay đại thần thông lực, đại oai lực của Tôn giả Sa-môn! Với ngón chân cái, vị này làm cho thiên cung này rung động, chuyển động, chấn động mạnh!”
“acchariyaṃ vata, bho, abbhutaṃ vata, bho. Samaṇassa mahiddhikatā mahānubhāvatā, yatra hi nāma dibbabhavanaṃ pādaṅguṭṭhakena saṅkampessati sampakampessati sampavedhessatī”ti.

Tôn giả MahaMoggallāna sau khi biết Thiên chủ Sakka đã hoảng sợ, lông tóc dựng ngược liền nói với Thiên chủ Sakka:
Atha kho āyasmā mahāmoggallāno sakkaṃ devānamindaṃ saṃviggaṃ lomahaṭṭhajātaṃ viditvā sakkaṃ devānamindaṃ etadavoca:

“Này Kosiya, về lời thuyết giảng mà Thế Tôn đã nói cho Ông một cách tóm tắt?
“yathā kathaṃ pana kho, kosiya, bhagavā saṅkhittena taṇhāsaṅkhayavimuttiṃ abhāsi?

Thật tốt lành cho chúng tôi, nếu được nghe chỉ một phần lời thuyết giảng ấy.”
Sādhu mayampi etissā kathāya bhāgino assāma savanāyā”ti.

“Ở đây, này Thiện hữu Moggallāna, tôi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Này Thiện hữu Moggallāna, sau khi đứng một bên, tôi bạch với Thế Tôn như sau:
“Idhāhaṃ, mārisa moggallāna, yena bhagavā tenupasaṅkamiṃ; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsiṃ. Ekamantaṃ ṭhito kho ahaṃ, mārisa moggallāna, bhagavantaṃ etadavocaṃ:

‘Bạch Thế Tôn, một cách tóm tắt, đến mức độ nào, một Tỷ-kheo là ái tận giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người?’
‘kittāvatā nu kho, bhante, bhikkhu saṅkhittena taṇhāsaṅkhayavimutto hoti accantaniṭṭho accantayogakkhemī accantabrahmacārī accantapariyosāno seṭṭho devamanussānan’ti?

Khi nghe nói vậy, này Thiện hữu Moggallāna, Thế Tôn nói với tôi như sau:
Evaṃ vutte, mārisa moggallāna, bhagavā maṃ etadavoca:

‘Ở đây, này Thiên chủ, Tỷ-kheo được nghe như sau:
‘idha, devānaminda, bhikkhuno sutaṃ hoti:

“Thật không xứng đáng, nếu có thiên vị đối với tất cả pháp”‘.
“sabbe dhammā nālaṃ abhinivesāyā”ti.

Vị ấy biết rõ tất cả pháp. Sau khi biết rõ tất cả pháp, vị ấy biết một cách rốt ráo tất cả pháp”.
Evañcetaṃ, devānaminda, bhikkhuno sutaṃ hoti “sabbe dhammā nālaṃ abhinivesāyā”ti.

Do biết một cách rốt ráo tất cả pháp, nếu có cảm thọ nào, lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, vị ấy sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy. Vị ấy nhờ sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy nên không chấp trước một vật gì ở đời; do không chấp trước nên không phiền não; do không phiền não, vị ấy chứng đạt Niết-bàn.
So sabbaṃ dhammaṃ abhijānāti, sabbaṃ dhammaṃ abhiññāya sabbaṃ dhammaṃ parijānāti, sabbaṃ dhammaṃ pariññāya yaṃ kiñci vedanaṃ vedeti sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā. So tāsu vedanāsu aniccānupassī viharati, virāgānupassī viharati, nirodhānupassī viharati, paṭinissaggānupassī viharati. So tāsu vedanāsu aniccānupassī viharanto, virāgānupassī viharanto, nirodhānupassī viharanto, paṭinissaggānupassī viharanto na kiñci loke upādiyati, anupādiyaṃ na paritassati, aparitassaṃ paccattaññeva parinibbāyati:

Vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa”.
“khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā”ti pajānāti.

“Này Thiên chủ, một cách tóm tắt, đến mức độ như vậy, một Tỷ-kheo ái tận giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người”.
Ettāvatā kho, devānaminda, bhikkhu saṅkhittena taṇhāsaṅkhayavimutto hoti accantaniṭṭho accantayogakkhemī accantabrahmacārī accantapariyosāno seṭṭho devamanussānan’ti.

Như vậy, này Thiện hữu Moggallāna, Thế Tôn nói một cách tóm tắt cho tôi về ái tận giải thoát. “
Evaṃ kho me, mārisa moggallāna, bhagavā saṅkhittena taṇhāsaṅkhayavimuttiṃ abhāsī”ti.

Rồi Tôn giả Mahāmoggallāna, sau khi hoan hỷ, tín cho lời Thiên chủ Sakka nói, như một nhà lực sĩ duỗi ra cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, biến mất giữa chư thiên ở cõi trời Ba mươi ba, và hiện ra tại Ðông Viên Lộc Mẫu giảng đường.
Atha kho āyasmā mahāmoggallāno sakkassa devānamindassa bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā—seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya; evameva—devesu tāvatiṃsesu antarahito pubbārāme migāramātupāsāde pāturahosi.

Sau khi Tôn giả MahaMoggallāna đi chẳng bao lâu, các thị nữ của Thiên chủ Sakka nói với Thiên chủ Sakka như sau:
Atha kho sakkassa devānamindassa paricārikāyo acirapakkante āyasmante mahāmoggallāne sakkaṃ devānamindaṃ etadavocuṃ:

“Thưa Thiên chủ, có phải vị ấy là Thế Tôn, bậc Ðạo sư của Thiên chủ?”
“eso nu te, mārisa, so bhagavā satthā”ti?

“Không, vị ấy không phải là Thế Tôn, bậc Ðạo Sư của ta.
“Na kho me, mārisa, so bhagavā satthā.

Vị ấy là đồng phạm hạnh với ta, Tôn giả Mahāmoggallāna.”
Sabrahmacārī me eso āyasmā mahāmoggallāno”ti.

“Thưa Thiên chủ, thật là điều tốt lành cho Thiên chủ, có một vị đồng phạm hạnh có đại thần thông, có đại oai lực như vậy.
“Lābhā te, mārisa, suladdhaṃ te, mārisa yassa te sabrahmacārī evaṃmahiddhiko evaṃmahānubhāvo.

Chắc chắn vị ấy là Thế Tôn, bậc Ðạo Sư của Thiên chủ.”
Aho nūna te so bhagavā satthā”ti.

Rồi Tôn giả Mahāmoggallāna đến tại chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahāmoggallāna bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā mahāmoggallāno yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā mahāmoggallāno bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có biết chăng, Thế Tôn vừa mới nói về ái tận giải thoát một cách tóm tắt cho một Dạ-xoa có đại oai lực?”
“abhijānāti no, bhante, bhagavā ahu ñātaññatarassa mahesakkhassa yakkhassa saṅkhittena taṇhāsaṅkhayavimuttiṃ bhāsitā”ti?

Này Moggallāna, Ta biết. Ở đây, Thiên chủ Sakka đến tại chỗ Ta ở, sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Sau khi đứng một bên, này Moggallāna, Thiên chủ Sakka bạch với Ta:
“Abhijānāmahaṃ, moggallāna, idha sakko devānamindo yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho, moggallāna, sakko devānamindo maṃ etadavoca:

‘Bạch Thế Tôn, nói một cách tóm tắt, đến mức độ nào, một Tỷ-kheo ái tận giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người?’
‘kittāvatā nu kho, bhante, bhikkhu saṅkhittena taṇhāsaṅkhayavimutto hoti accantaniṭṭho accantayogakkhemī accantabrahmacārī accantapariyosāno seṭṭho devamanussānan’ti.

Khi nghe nói vậy, này Mahāmoggallāna, Ta nói với Thiên chủ Sakka:
Evaṃ vutte, ahaṃ, moggallāna, sakkaṃ devānamindaṃ etadavocaṃ

‘Ở đây, này Thiên chủ, Tỷ-kheo được nghe như sau:
‘idha devānaminda, bhikkhuno sutaṃ hoti

“Thật không xứng đáng, nếu có thiên vị đối với tất cả pháp”.
“sabbe dhammā nālaṃ abhinivesāyā”ti.

Này Thiên chủ, nếu Tỷ-kheo được nghe như sau:
Evaṃ cetaṃ, devānaminda, bhikkhuno sutaṃ hoti

“Thật không xứng đáng nếu có thiên vị đối với tất cả pháp”.
“sabbe dhammā nālaṃ abhinivesāyā”ti.

Vị ấy biết rõ tất cả pháp. Sau khi biết rõ tất cả pháp, vị ấy biết một cách rốt ráo tất cả pháp. Do biết một cách rốt ráo tất cả pháp, nếu có một cảm thọ nào, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ, vị ấy sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy. Vị ấy nhờ sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy nên không chấp trước một vật gì ở đời. Do không chấp trước nên không phiền não, do không phiền não, vị ấy chứng đạt Niết-bàn. Vị ấy tuệ tri:
So sabbaṃ dhammaṃ abhijānāti, sabbaṃ dhammaṃ abhiññāya sabbaṃ dhammaṃ parijānāti, sabbaṃ dhammaṃ pariññāya yaṃ kiñci vedanaṃ vedeti sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā. So tāsu vedanāsu aniccānupassī viharati, virāgānupassī viharati, nirodhānupassī viharati, paṭinissaggānupassī viharati. So tāsu vedanāsu aniccānupassī viharanto, virāgānupassī viharanto, nirodhānupassī viharanto, paṭinissaggānupassī viharanto na kiñci loke upādiyati, anupādiyaṃ na paritassati, aparitassaṃ paccattaññeva parinibbāyati:

“Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa”.
“khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā”ti pajānāti.

Này Thiên chủ, một cách tóm tắt, đến mức độ như vậy, một Tỷ-kheo ái tận giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn, khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người”.
Ettāvatā kho, devānaminda, bhikkhu saṅkhittena taṇhāsaṅkhayavimutto hoti accantaniṭṭho accantayogakkhemī accantabrahmacārī accantapariyosāno seṭṭho devamanussānan’ti.

“Như vậy, này Moggallāna, Ta biết Ta vừa nói một cách tóm tắt về ái tận giải thoát cho Thiên chủ Sakka.”
Evaṃ kho ahaṃ, moggallāna, abhijānāmi sakkassa devānamindassa saṅkhittena taṇhāsaṅkhayavimuttiṃ bhāsitā”ti.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Idamavoca bhagavā.

Tôn giả Mahāmoggallāna hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Attamano āyasmā mahāmoggallāno bhagavato bhāsitaṃ abhinandīti.

Cūḷataṇhāsaṅkhayasuttaṃ niṭṭhitaṃ sattamaṃ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt