Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Majjhima Nikāya - Trung Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trung Bộ 43

Trung Bộ 43
Majjhima Nikāya 43

Đại Kinh Phương Quảng
Mahāvedallasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī, tại Jetavana, tịnh xá ông Anāthapiṇḍika.
ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahākoṭṭhita (Ðại Câu-hy-la), vào buổi chiều, khi thiền định xong, đứng dậy, đi đến chỗ Tôn giả Sāriputta ở, sau khi đến nói lên với Tôn giả Sāriputta những lời chào đón, hỏi thăm xã giao rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahākoṭṭhita nói với Tôn giả Sāriputta:
Atha kho āyasmā mahākoṭṭhiko sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yenāyasmā sāriputto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā sāriputtena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā mahākoṭṭhiko āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca:

“Này Hiền giả, liệt tuệ, liệt tuệ (duppañña) được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là liệt tuệ?”
“‘Duppañño duppañño’ti, āvuso, vuccati. Kittāvatā nu kho, āvuso, duppaññoti vuccatī”ti?

“Này Hiền giả, vì không tuệ tri, không tuệ tri (nappajānātī), này Hiền giả nên được gọi là liệt tuệ.
“Nappajānāti nappajānātī’ti kho, āvuso, tasmā duppaññoti vuccati.

Không tuệ tri gì?
Kiñca nappajānāti?

Không tuệ tri: ‘đây là Khổ’, không tuệ tri: ‘đây là Khổ tập’, không tuệ tri: ‘đây là Khổ diệt’, không tuệ tri: ‘đây là Con đường đưa đến Khổ diệt’.
‘Idaṃ dukkhan’ti nappajānāti, ‘ayaṃ dukkhasamudayo’ti nappajānāti, ‘ayaṃ dukkhanirodho’ti nappajānāti, ‘ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā’ti nappajānāti.

Vì không tuệ tri, không tuệ tri, này Hiền giả, nên được gọi là liệt tuệ.”
‘Nappajānāti nappajānātī’ti kho, āvuso, tasmā duppaññoti vuccatī”ti.

Lành thay, Hiền giả. Tôn giả Mahākoṭṭhita hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Sāriputta nói, rồi hỏi Tôn giả Sāriputta một câu hỏi nữa:
“Sādhāvuso”ti kho āyasmā mahākoṭṭhiko āyasmato sāriputtassa bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā āyasmantaṃ sāriputtaṃ uttariṃ pañhaṃ apucchi:

“Này Hiền giả, trí tuệ, trí tuệ được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào là được gọi là trí tuệ?”
“Paññavā paññavā’ti, āvuso, vuccati. Kittāvatā nu kho, āvuso, paññavāti vuccatī”ti?

“Vì có tuệ tri, có tuệ tri, này Hiền giả, nên được gọi là trí tuệ.
“Pajānāti pajānātī’ti kho, āvuso, tasmā paññavāti vuccati.

Có tuệ tri gì?
Kiñca pajānāti?

Có tuệ tri: ‘đây là Khổ’, có tuệ tri: ‘đây là Khổ tập’, có tuệ tri: ‘đây là Khổ diệt’, có tuệ tri: ‘đây là Con đường đưa đến Khổ diệt’.
‘Idaṃ dukkhan’ti pajānāti, ‘ayaṃ dukkhasamudayo’ti pajānāti, ‘ayaṃ dukkhanirodho’ti pajānāti, ‘ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā’ti pajānāti.

Vì có tuệ tri, có tuệ tri, này Hiền giả, nên được gọi là trí tuệ.”
‘Pajānāti pajānātī’ti kho, āvuso, tasmā paññavāti vuccatī”ti.

“Thức, thức, này Hiền giả, được gọi là như vậy, Này Hiền giả, như thế nào được gọi là thức?”
“Viññāṇaṃ viññāṇan’ti, āvuso, vuccati. Kittāvatā nu kho, āvuso, viññāṇanti vuccatī”ti?

“Này Hiền giả, vì thức tri, thức tri, này Hiền giả nên được gọi là có thức.
“Vijānāti vijānātī’ti kho, āvuso, tasmā viññāṇanti vuccati.

Thức tri gì?
Kiñca vijānāti?

Thức tri lạc, thức tri khổ, thức tri bất khổ bất lạc.
Sukhantipi vijānāti, dukkhantipi vijānāti, adukkhamasukhantipi vijānāti.

Vì thức tri, thức tri, này Hiền giả, nên được gọi là có thức.”
‘Vijānāti vijānātī’ti kho, āvuso, tasmā viññāṇanti vuccatī”ti.

“Nầy Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy, những pháp này được kết hợp hay không được kết hợp?
“Yā cāvuso, paññā yañca viññāṇaṃ—ime dhammā saṃsaṭṭhā udāhu visaṃsaṭṭhā?

Có thể chăng, nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần?”
Labbhā ca panimesaṃ dhammānaṃ vinibbhujitvā vinibbhujitvā nānākaraṇaṃ paññāpetun”ti?

“Này Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không kết hợp.
“Yā cāvuso, paññā yañca viññāṇaṃ—ime dhammā saṃsaṭṭhā, no visaṃsaṭṭhā.

Không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần.
Na ca labbhā imesaṃ dhammānaṃ vinibbhujitvā vinibbhujitvā nānākaraṇaṃ paññāpetuṃ.

Này Hiền giả, điều gì tuệ tri được là thức tri được, điều gì thức tri được là tuệ tri được.
Yaṃ hāvuso, pajānāti taṃ vijānāti, yaṃ vijānāti taṃ pajānāti.

Do vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không kết hợp,
Tasmā ime dhammā saṃsaṭṭhā, no visaṃsaṭṭhā.

và không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần.”
Na ca labbhā imesaṃ dhammānaṃ vinibbhujitvā vinibbhujitvā nānākaraṇaṃ paññāpetun”ti.

“Này Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy, thế nào là sự sai khác giữa những pháp được kết hợp, không phải không kết hợp này?”
“Yā cāvuso, paññā yañca viññāṇaṃ—imesaṃ dhammānaṃ saṃsaṭṭhānaṃ no visaṃsaṭṭhānaṃ kiṃ nānākaraṇan”ti?

“Này Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy, giữa những pháp được kết hợp, không phải không được kết hợp này, trí tuệ cần phải được tu tập (bhāvetabbā), còn thức cần phải được liễu tri (pariññeyyaṃ) như vậy là sự sai khác giữa những pháp này.”
“Yā cāvuso, paññā yañca viññāṇaṃ—imesaṃ dhammānaṃ saṃsaṭṭhānaṃ no visaṃsaṭṭhānaṃ paññā bhāvetabbā, viññāṇaṃ pariññeyyaṃ. Idaṃ nesaṃ nānākaraṇan”ti.

“Cảm thọ, cảm thọ, này Hiền giả, được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là cảm thọ?”
“‘Vedanā vedanā’ti, āvuso, vuccati. Kittāvatā nu kho, āvuso, vedanāti vuccatī”ti?

“Này Hiền giả, cảm thọ, cảm thọ (Vedetī), nên được gọi là cảm thọ.
“‘Vedeti vedetī’ti kho, āvuso, tasmā vedanāti vuccati.

Và cảm thọ gì?
Kiñca vedeti?

Cảm thọ lạc, cảm thọ khổ, cảm thọ bất khổ bất lạc.
Sukhampi vedeti, dukkhampi vedeti, adukkhamasukhampi vedeti.

Này Hiền giả, cảm thọ, cảm thọ, nên được gọi là cảm thọ.”
‘Vedeti vedetī’ti kho, āvuso, tasmā vedanāti vuccatī”ti.

“Này Hiền giả, tưởng, tưởng (saññā) được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là tưởng?”
“‘Saññā saññā’ti, āvuso, vuccati. Kittāvatā nu kho, āvuso, saññāti vuccatī”ti?

“Tưởng tri, tưởng tri (sañjānātī), này Hiền giả, nên được gọi là tưởng,
“‘Sañjānāti sañjānātī’ti kho, āvuso, tasmā saññāti vuccati.

Và tưởng tri gì?
Kiñca sañjānāti?

Tưởng tri màu xanh, tưởng tri màu vàng, tưởng tri màu đỏ, tưởng tri màu trắng.
Nīlakampi sañjānāti, pītakampi sañjānāti, lohitakampi sañjānāti, odātampi sañjānāti.

Tưởng tri, tưởng tri, này Hiền giả, nên được gọi là tưởng.”
‘Sañjānāti sañjānātī’ti kho, āvuso, tasmā saññāti vuccatī”ti.

“Này Hiền giả, thọ như vậy, tưởng như vậy, những pháp này được kết hợp hay không được kết hợp?
“Yā cāvuso, vedanā yā ca saññā yañca viññāṇaṃ—ime dhammā saṃsaṭṭhā udāhu visaṃsaṭṭhā?

Có thể chăng, nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần?”
Labbhā ca panimesaṃ dhammānaṃ vinibbhujitvā vinibbhujitvā nānākaraṇaṃ paññāpetun”ti?

“Này Hiền giả, cảm thọ như vậy, tưởng như vậy,
“Yā cāvuso, vedanā yā ca saññā yañca viññāṇaṃ—

những pháp này được kết hợp, không phải không được kết hợp.
ime dhammā saṃsaṭṭhā, no visaṃsaṭṭhā.

Không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần.
Na ca labbhā imesaṃ dhammānaṃ vinibbhujitvā vinibbhujitvā nānākaraṇaṃ paññāpetuṃ.

Này Hiền giả, điều gì cảm thọ được là tưởng tri được, điều gì tưởng tri được là cảm thọ được.
Yaṃ hāvuso, vedeti taṃ sañjānāti, yaṃ sañjānāti taṃ vijānāti.

Do vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không được kết hợp,
Tasmā ime dhammā saṃsaṭṭhā no visaṃsaṭṭhā.

và không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần.”
Na ca labbhā imesaṃ dhammānaṃ vinibbhujitvā vinibbhujitvā nānākaraṇaṃ paññāpetun”ti.

“Này Hiền giả, ý thức thanh tịnh, không liên hệ đến năm căn có thể đưa đến gì?”
“Nissaṭṭhena hāvuso, pañcahi indriyehi parisuddhena manoviññāṇena kiṃ neyyan”ti?

“Này Hiền giả, ý thức thanh tịnh, không liên hệ đến năm căn, có thể đưa đến Hư không vô biên xứ; hư không là vô biên, có thể đưa đến Thức vô biên xứ; thức là vô biên, có thể đưa đến Vô sở hữu xứ, không có sự vật gì.”
“Nissaṭṭhena, āvuso, pañcahi indriyehi parisuddhena manoviññāṇena ‘ananto ākāso’ti ākāsānañcāyatanaṃ neyyaṃ, ‘anantaṃ viññāṇan’ti viññāṇañcāyatanaṃ neyyaṃ, ‘natthi kiñcī’ti ākiñcaññāyatanaṃ neyyan”ti.

“Này Hiền giả, pháp gì đưa đến nhờ gì có thể tuệ tri được?”
“Neyyaṃ panāvuso, dhammaṃ kena pajānātī”ti?

“Này Hiền giả, nhờ tuệ nhãn, pháp được đưa đến có thể tuệ tri.”
“Neyyaṃ kho, āvuso, dhammaṃ paññācakkhunā pajānātī”ti.

“Này Hiền giả, trí tuệ có ý nghĩa gì?”
“Paññā panāvuso, kimatthiyā”ti?

“Này Hiền giả, trí tuệ có ý nghĩa là thắng tri (abhiññatthā), có nghĩa là liễu tri (pariññatthā), có nghĩa là đoạn tận (pahānatthā).”
“Paññā kho, āvuso, abhiññatthā pariññatthā pahānatthā”ti.

“Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên khiến chánh tri kiến sanh khởi?”
“Kati panāvuso, paccayā sammādiṭṭhiyā uppādāyā”ti?

“Này Hiền giả, có hai duyên khiến chánh tri kiến sanh khởi:
“Dve kho, āvuso, paccayā sammādiṭṭhiyā uppādāya—

Tiếng của người khác và như lý tác ý.
parato ca ghoso, yoniso ca manasikāro.

Này Hiền giả, do hai duyên này, chánh tri kiến sanh khởi.”
Ime kho, āvuso, dve paccayā sammādiṭṭhiyā uppādāyā”ti.

“Này Hiền giả, chánh tri kiến phải được hỗ trợ bởi bao nhiêu chi phần để có tâm giải thoát quả, tâm giải thoát quả công đức, và tuệ giải thoát quả, tuệ giải thoát quả công đức?”
“Katihi panāvuso, aṅgehi anuggahitā sammādiṭṭhi cetovimuttiphalā ca hoti cetovimuttiphalānisaṃsā ca, paññāvimuttiphalā ca hoti paññāvimuttiphalānisaṃsā cā”ti?

“Này Hiền giả, chánh tri kiến phải được hỗ trợ bởi năm chi phần để có tâm giải thoát quả, tâm giải thoát quả công đức, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát quả công đức.
“Pañcahi kho, āvuso, aṅgehi anuggahitā sammādiṭṭhi cetovimuttiphalā ca hoti cetovimuttiphalānisaṃsā ca, paññāvimuttiphalā ca hoti paññāvimuttiphalānisaṃsā ca.

Ở đây, này Hiền giả, chánh tri kiến có giới hỗ trợ, có văn (sutā) hỗ trợ, có thảo luận (sākacchā) hỗ trợ, có chỉ (samathā) hỗ trợ, có quán (vipassanā) hỗ trợ.
Idhāvuso, sammādiṭṭhi sīlānuggahitā ca hoti, sutānuggahitā ca hoti, sākacchānuggahitā ca hoti, samathānuggahitā ca hoti, vipassanānuggahitā ca hoti.

Này Hiền giả, chánh tri kiến được hỗ trợ bởi năm chi phần này để có tâm giải thoát quả, tâm giải thoát quả công đức, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát quả công đức.”
Imehi kho, āvuso, pañcahaṅgehi anuggahitā sammādiṭṭhi cetovimuttiphalā ca hoti cetovimuttiphalānisaṃsā ca, paññāvimuttiphalā ca hoti paññāvimuttiphalānisaṃsā cā”ti.

“Này Hiền giả, có bao nhiêu hữu (bhavā)?”
“Kati panāvuso, bhavā”ti?

“Này Hiền giả có ba hữu: dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu.”
“Tayome, āvuso, bhavā—kāmabhavo, rūpabhavo, arūpabhavo”ti.

“Này Hiền giả, như thế nào sự tái sanh trong tương lai được xảy ra?”
“Kathaṃ panāvuso, āyatiṃ punabbhavābhinibbatti hotī”ti?

“Này Hiền giả, bị vô minh ngăn che, bị tham ái trói buộc, các loài hữu tình thích thú chỗ này chỗ kia,
“Avijjānīvaraṇānaṃ kho, āvuso, sattānaṃ taṇhāsaṃyojanānaṃ tatratatrābhinandanā—

như vậy, sự tái sinh trong tương lai được xảy ra.”
evaṃ āyatiṃ punabbhavābhinibbatti hotī”ti.

“Này Hiền giả, như thế nào sự tái sanh trong tương lai không xảy ra?”
“Kathaṃ panāvuso, āyatiṃ punabbhavābhinibbatti na hotī”ti?

“Này Hiền giả, vô minh được xả ly, minh khởi, tham ái được đoạn diệt,
“Avijjāvirāgā kho, āvuso, vijjuppādā taṇhānirodhā—

như vậy sự tái sanh trong tương lai không xảy ra.”
evaṃ āyatiṃ punabbhavābhinibbatti na hotī”ti.

“Này Hiền giả, thế nào là Thiền thứ nhất?”
“Katamaṃ panāvuso, paṭhamaṃ jhānan”ti?

“Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
“Idhāvuso, bhikkhu vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati—

Như vậy, này Hiền giả, gọi là Thiền thứ nhất.”
idaṃ vuccati, āvuso, paṭhamaṃ jhānan”ti.

“Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có bao nhiêu chi phần?”
“Paṭhamaṃ panāvuso, jhānaṃ katiaṅgikan”ti?

“Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có năm chi phần.
“Paṭhamaṃ kho, āvuso, jhānaṃ pañcaṅgikaṃ.

Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo thành tựu Thiền thứ nhất, có tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm.
Idhāvuso, paṭhamaṃ jhānaṃ samāpannassa bhikkhuno vitakko ca vattati, vicāro ca pīti ca sukhañca cittekaggatā ca.

Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có năm chi phần như vậy.”
Paṭhamaṃ kho, āvuso, jhānaṃ evaṃ pañcaṅgikan”ti.

“Này Hiền giả, Thiền thứ nhất từ bỏ bao nhiêu chi phần và thành tựu bao nhiêu chi phần?”
“Paṭhamaṃ panāvuso, jhānaṃ kataṅgavippahīnaṃ kataṅgasamannāgatan”ti?

“Này Hiền giả, Thiền thứ nhất từ bỏ năm chi phần và thành tựu năm chi phần.
“Paṭhamaṃ kho, āvuso, jhānaṃ pañcaṅgavippahīnaṃ, pañcaṅgasamannāgataṃ.

Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo thành tựu Thiền thứ nhất từ bỏ tham dục, từ bỏ sân, từ bỏ hôn trầm thụy miên, từ bỏ trạo hối, từ bỏ nghi, thành tựu tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm.
Idhāvuso, paṭhamaṃ jhānaṃ samāpannassa bhikkhuno kāmacchando pahīno hoti, byāpādo pahīno hoti, thinamiddhaṃ pahīnaṃ hoti, uddhaccakukkuccaṃ pahīnaṃ hoti, vicikicchā pahīnā hoti; vitakko ca vattati, vicāro ca pīti ca sukhañca cittekaggatā ca.

Này Hiền giả, như vậy Thiền thứ nhất từ bỏ năm chi phần, và thành tựu năm chi phần.”
Paṭhamaṃ kho, āvuso, jhānaṃ evaṃ pañcaṅgavippahīnaṃ pañcaṅgasamannāgatan”ti.

“Này Hiền giả, năm căn này, có cảnh giới khác nhau, có hành giới khác nhau, không có lẫn lộn cảnh giới, hành giới với nhau.
“Pañcimāni, āvuso, indriyāni nānāvisayāni nānāgocarāni, na aññamaññassa gocaravisayaṃ paccanubhonti, seyyathidaṃ—

Tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.
cakkhundriyaṃ, sotindriyaṃ, ghānindriyaṃ, jivhindriyaṃ, kāyindriyaṃ.

Này Hiền giả, giữa năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành giới sai khác, không có thọ lãnh cảnh giới, hành giới lẫn nhau, cái gì làm sở y cho chúng, cái gì lãnh thọ cảnh giới, hành giới của chúng?”
Imesaṃ kho, āvuso, pañcannaṃ indriyānaṃ nānāvisayānaṃ nānāgocarānaṃ, na aññamaññassa gocaravisayaṃ paccanubhontānaṃ, kiṃ paṭisaraṇaṃ, ko ca nesaṃ gocaravisayaṃ paccanubhotī”ti?

Này Hiền giả, năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành giới sai khác, không có lãnh thọ cảnh giới, hành giới lẫn nhau, tức là
“Pañcimāni, āvuso, indriyāni nānāvisayāni nānāgocarāni, na aññamaññassa gocaravisayaṃ paccanubhonti, seyyathidaṃ—

mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.
cakkhundriyaṃ, sotindriyaṃ, ghānindriyaṃ, jivhindriyaṃ, kāyindriyaṃ.

“Này Hiền giả, giữa năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành giới sai khác, không có lẫn lộn cảnh giới, hành giới với nhau, ý làm sở y cho chúng, và ý lãnh thọ cảnh giới và hành giới của chúng.”
Imesaṃ kho, āvuso, pañcannaṃ indriyānaṃ nānāvisayānaṃ nānāgocarānaṃ, na aññamaññassa gocaravisayaṃ paccanubhontānaṃ, mano paṭisaraṇaṃ, mano ca nesaṃ gocaravisayaṃ paccanubhotī”ti.

Này Hiền giả, năm căn này là
“Pañcimāni, āvuso, indriyāni, seyyathidaṃ—

mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.
cakkhundriyaṃ, sotindriyaṃ, ghānindriyaṃ, jivhindriyaṃ, kāyindriyaṃ.

“Này Hiền giả, năm căn này, do duyên gì mà chúng an trú?”
Imāni kho, āvuso, pañcindriyāni kiṃ paṭicca tiṭṭhantī”ti?

Này Hiền giả, năm căn này là
“Pañcimāni, āvuso, indriyāni, seyyathidaṃ—

mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.
cakkhundriyaṃ, sotindriyaṃ, ghānindriyaṃ, jivhindriyaṃ, kāyindriyaṃ.

“Này Hiền giả, năm căn này, do duyên tuổi thọ (āyu) mà chúng an trú.”
Imāni kho, āvuso, pañcindriyāni āyuṃ paṭicca tiṭṭhantī”ti.

“Này Hiền giả, tuổi thọ do duyên gì mà an trú?”
“Āyu panāvuso, kiṃ paṭicca tiṭṭhatī”ti?

“Tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an trú.”
“Āyu usmaṃ paṭicca tiṭṭhatī”ti.

“Này Hiền giả, hơi nóng do duyên gì mà an trú?”
“Usmā panāvuso, kiṃ paṭicca tiṭṭhatī”ti?

“Hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú.”
“Usmā āyuṃ paṭicca tiṭṭhatī”ti.

“Này Hiền giả, nay chúng tôi được biết từ lời nói của Tôn giả Sāriputta là
“Idāneva kho mayaṃ, āvuso, āyasmato sāriputtassa bhāsitaṃ evaṃ ājānāma:

‘tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an trú.’
‘āyu usmaṃ paṭicca tiṭṭhatī’ti.

Nay chúng tôi lại được biết từ lời nói của Tôn giả Sāriputta là
Idāneva pana mayaṃ, āvuso, āyasmato sāriputtassa bhāsitaṃ evaṃ ājānāma:

‘hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú.’
‘usmā āyuṃ paṭicca tiṭṭhatī’ti.

Này Hiền giả, như thế nào, cần phải hiểu ý nghĩa lời nói này?”
Yathā kathaṃ panāvuso, imassa bhāsitassa attho daṭṭhabbo”ti?

“Này Hiền giả, tôi sẽ cho một ví dụ.
“Tena hāvuso, upamaṃ te karissāmi;

Nhờ ví dụ, ở đây, một số người có trí sẽ hiểu ý nghĩa lời nói.
upamāyapidhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṃ ājānanti.

Này Hiền giả, ví như khi một cây đèn dầu được thắp sáng, duyên tim đèn, ánh sáng được hiện ra, do duyên ánh sáng, tim đèn được thấy.
Seyyathāpi, āvuso, telappadīpassa jhāyato acciṃ paṭicca ābhā paññāyati, ābhaṃ paṭicca acci paññāyati;

Cũng vậy này Hiền giả, tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an trú, và hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú.”
evameva kho, āvuso, āyu usmaṃ paṭicca tiṭṭhati, usmā āyuṃ paṭicca tiṭṭhatī”ti.

“Này Hiền giả, những pháp thọ hành (āyusaṅkhārā) này là những pháp được cảm thọ (vedaniyā) này, hay những pháp thọ hành này khác với những pháp được cảm thọ này?”
“Teva nu kho, āvuso, āyusaṅkhārā, te vedaniyā dhammā udāhu aññe āyusaṅkhārā aññe vedaniyā dhammā”ti?

“Này Hiền giả, những pháp thọ hành này không phải là những pháp được cảm thọ này.
“Na kho, āvuso, teva āyusaṅkhārā te vedaniyā dhammā.

Này Hiền giả, nếu những pháp thọ hành này là những pháp được cảm thọ này thì không thể nêu rõ sự xuất khởi của vị Tỷ-kheo đã thành tựu Diệt thọ tưởng định.
Te ca hāvuso, āyusaṅkhārā abhaviṃsu te vedaniyā dhammā, na yidaṃ saññāvedayitanirodhaṃ samāpannassa bhikkhuno vuṭṭhānaṃ paññāyetha.

Này Hiền giả, vì rằng những pháp thọ hành khác, những pháp được cảm thọ khác nên có thể nêu rõ sự xuất khởi của vị Tỷ-kheo đã thành tựu Diệt thọ tưởng định.”
Yasmā ca kho, āvuso, aññe āyusaṅkhārā aññe vedaniyā dhammā, tasmā saññāvedayitanirodhaṃ samāpannassa bhikkhuno vuṭṭhānaṃ paññāyatī”ti.

“Này Hiền giả, đối với thân này, khi nào có bao nhiêu pháp được từ bỏ, thì thân này được nằm xuống, quăng đi, vất bỏ, như một khúc gỗ vô tri?”
“Yadā nu kho, āvuso, imaṃ kāyaṃ kati dhammā jahanti; athāyaṃ kāyo ujjhito avakkhitto seti, yathā kaṭṭhaṃ acetanan”ti?

“Này Hiền giả, đối với thân này, khi nào ba pháp được từ bỏ: Tuổi thọ, hơi nóng và thức, thì thân này nằm xuống, được quăng đi, vất bỏ, như một khúc gỗ vô tri.”
“Yadā kho, āvuso, imaṃ kāyaṃ tayo dhammā jahanti—āyu usmā ca viññāṇaṃ; athāyaṃ kāyo ujjhito avakkhitto seti, yathā kaṭṭhaṃ acetanan”ti.

“Này Hiền giả, có sự sai khác gì giữa vật chết, mạng chung này với vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt thọ tưởng định?”
“Yvāyaṃ, āvuso, mato kālaṅkato, yo cāyaṃ bhikkhu saññāvedayitanirodhaṃ samāpanno—imesaṃ kiṃ nānākaraṇan”ti?

“Này Hiền giả, vật chết, mạng chung này, thân hành của nó chấm dứt, dừng lại, khẩu hành chấm dứt, dừng lại, tâm hành chấm dứt, dừng lại, tuổi thọ diệt tận, hơi nóng tiêu diệt, các căn bị bại hoại.
“Yvāyaṃ, āvuso, mato kālaṅkato tassa kāyasaṅkhārā niruddhā paṭippassaddhā, vacīsaṅkhārā niruddhā paṭippassaddhā, cittasaṅkhārā niruddhā paṭippassaddhā, āyu parikkhīṇo, usmā vūpasantā, indriyāni paribhinnāni.

Còn vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt thọ tưởng định, thì thân hành của vị này được chấm dứt, được dừng lại, khẩu hành được chấm dứt, được dừng lại, tâm hành được chấm dứt, được dừng lại, nhưng tuổi thọ không diệt tận, hơi nóng không tiêu diệt, các căn được sáng suốt.
Yo cāyaṃ bhikkhu saññāvedayitanirodhaṃ samāpanno tassapi kāyasaṅkhārā niruddhā paṭippassaddhā, vacīsaṅkhārā niruddhā paṭippassaddhā, cittasaṅkhārā niruddhā paṭippassaddhā, āyu na parikkhīṇo, usmā avūpasantā, indriyāni vippasannāni.

Này Hiền giả, như vậy là sự sai khác giữa vật chết, mạng chung này với vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt thọ tưởng định.”
Yvāyaṃ, āvuso, mato kālaṅkato, yo cāyaṃ bhikkhu saññāvedayitanirodhaṃ samāpanno—idaṃ nesaṃ nānākaraṇan”ti.

“Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để chứng nhập tâm giải thoát bất khổ bất lạc?”
“Kati panāvuso, paccayā adukkhamasukhāya cetovimuttiyā samāpattiyā”ti?

“Này Hiền giả, có bốn duyên để chứng nhập tâm giải thoát bất khổ bất lạc.
“Cattāro kho, āvuso, paccayā adukkhamasukhāya cetovimuttiyā samāpattiyā.

Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Idhāvuso, bhikkhu sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā adukkhamasukhaṃ upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati.

Này Hiền giả, do bốn duyên này mà chứng nhập tâm giải thoát bất khổ bất lạc.”
Ime kho, āvuso, cattāro paccayā adukkhamasukhāya cetovimuttiyā samāpattiyā”ti.

“Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để chứng nhập vô tướng tâm giải thoát?”
“Kati panāvuso, paccayā animittāya cetovimuttiyā samāpattiyā”ti?

“Này Hiền giả, có hai duyên để chứng nhập vô tướng tâm giải thoát:
“Dve kho, āvuso, paccayā animittāya cetovimuttiyā samāpattiyā—

không có tác ý nhất thiết tướng và tác ý vô tướng giới.
sabbanimittānañca amanasikāro, animittāya ca dhātuyā manasikāro.

Này Hiền giả, do hai duyên này mà chứng nhập vô tướng tâm giải thoát.”
Ime kho, āvuso, dve paccayā animittāya cetovimuttiyā samāpattiyā”ti.

“Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để an trú vô tướng tâm giải thoát?”
“Kati panāvuso, paccayā animittāya cetovimuttiyā ṭhitiyā”ti?

“Này Hiền giả, có ba duyên để an trú vô tướng tâm giải thoát:
“Tayo kho, āvuso, paccayā animittāya cetovimuttiyā ṭhitiyā—

không tác ý nhất thiết tướng, tác ý vô tướng giới, và một sự sửa soạn trước.
sabbanimittānañca amanasikāro, animittāya ca dhātuyā manasikāro, pubbe ca abhisaṅkhāro.

Này Hiền giả, do ba duyên này mà an trú vô tướng tâm giải thoát.”
Ime kho, āvuso, tayo paccayā animittāya cetovimuttiyā ṭhitiyā”ti.

“Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để xuất khởi vô tướng tâm giải thoát?”
“Kati panāvuso, paccayā animittāya cetovimuttiyā vuṭṭhānāyā”ti?

“Này Hiền giả, có hai duyên để xuất khởi vô tướng tâm giải thoát:
“Dve kho, āvuso, paccayā animittāya cetovimuttiyā vuṭṭhānāya—

tác ý nhất thiết tướng và không tác ý vô tướng giới.
sabbanimittānañca manasikāro, animittāya ca dhātuyā amanasikāro.

Này Hiền giả, do hai duyên này mà xuất khởi vô tướng tâm giải thoát.”
Ime kho, āvuso, dve paccayā animittāya cetovimuttiyā vuṭṭhānāyā”ti.

“Này Hiền giả, vô lượng tâm giải thoát này, vô sở hữu tâm giải thoát này, không tâm giải thoát này và vô tướng tâm giải thoát này, những pháp này nghĩa sai biệt và danh sai biệt, hay nghĩa đồng nhất và danh sai biệt?”
“Yā cāyaṃ, āvuso, appamāṇā cetovimutti, yā ca ākiñcaññā cetovimutti, yā ca suññatā cetovimutti, yā ca animittā cetovimutti—ime dhammā nānātthā ceva nānābyañjanā ca udāhu ekatthā byañjanameva nānan”ti?

“Này Hiền giả, vô lượng tâm giải thoát, vô sở hữu tâm giải thoát, không tâm giải thoát và vô tướng tâm giải thoát này, có một pháp môn, này Hiền giả, do pháp môn này, các pháp ấy nghĩa sai biệt và danh sai biệt.
“Yā cāyaṃ, āvuso, appamāṇā cetovimutti, yā ca ākiñcaññā cetovimutti, yā ca suññatā cetovimutti, yā ca animittā cetovimutti—atthi kho, āvuso, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma ime dhammā nānātthā ceva nānābyañjanā ca;

Và này Hiền giả, lại có một pháp môn, do pháp môn này, các pháp ấy có nghĩa đồng nhất và danh sai biệt.
atthi ca kho, āvuso, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma ime dhammā ekatthā, byañjanameva nānaṃ.

Này Hiền giả, thế nào là có pháp môn, do pháp môn này các pháp ấy có nghĩa sai khác và có danh sai khác?
Katamo cāvuso, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma ime dhammā nānātthā ceva nānābyañjanā ca?

Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Idhāvuso, bhikkhu mettāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharati, tathā dutiyaṃ, tathā tatiyaṃ, tathā catutthaṃ. Iti uddhamadho tiriyaṃ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṃ lokaṃ mettāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharati.

Với tâm câu hữu với bi…
Karuṇāsahagatena cetasā ...pe...

với tâm câu hữu với hỷ…
muditāsahagatena cetasā …

an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
upekkhāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharati, tathā dutiyaṃ, tathā tatiyaṃ, tathā catutthaṃ. Iti uddhamadho tiriyaṃ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṃ lokaṃ upekkhāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharati.

Như vậy, này Hiền giả, gọi là vô lượng tâm giải thoát.
Ayaṃ vuccatāvuso, appamāṇā cetovimutti.

Và này Hiền giả, thế nào là vô sở hữu tâm giải thoát?
Katamā cāvuso, ākiñcaññā cetovimutti?

Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: “Không có vật gì”, chứng và trú Vô sở hữu xứ.
Idhāvuso, bhikkhu sabbaso viññāṇañcāyatanaṃ samatikkamma natthi kiñcīti ākiñcaññāyatanaṃ upasampajja viharati.

Như vậy, này Hiền giả, gọi là Vô sở hữu tâm giải thoát.
Ayaṃ vuccatāvuso, ākiñcaññā cetovimutti.

Và này Hiền giả, thế nào là không tâm giải thoát?
Katamā cāvuso, suññatā cetovimutti?

Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến chỗ nhà trống và suy nghĩ như sau:
Idhāvuso, bhikkhu araññagato vā rukkhamūlagato vā suññāgāragato vā iti paṭisañcikkhati:

“Ðây trống không, không có tự ngã hay không có ngã sở”.
‘suññamidaṃ attena vā attaniyena vā’ti.

Như vậy, này Hiền giả, gọi là không tâm giải thoát.
Ayaṃ vuccatāvuso, suññatā cetovimutti.

Và này Hiền giả, thế nào là vô tướng tâm giải thoát?
Katamā cāvuso, animittā cetovimutti?

Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo không tác ý với nhất thiết tướng, đạt và an trú vô tướng tâm định.
Idhāvuso, bhikkhu sabbanimittānaṃ amanasikārā animittaṃ cetosamādhiṃ upasampajja viharati.

Như vậy, này Hiền giả, gọi là vô tướng tâm giải thoát.
Ayaṃ vuccatāvuso, animittā cetovimutti.

Như vậy là có pháp môn và do pháp môn này những pháp ấy nghĩa sai biệt và danh sai biệt.
Ayaṃ kho, āvuso, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma ime dhammā nānātthā ceva nānābyañjanā ca.

Và này Hiền giả, thế nào là có pháp môn và do pháp môn này các pháp ấy có nghĩa đồng nhất nhưng danh sai biệt.
Katamo cāvuso, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma ime dhammā ekatthā byañjanameva nānaṃ?

Tham, này Hiền giả, là nguyên nhân của hạn lượng; sân là nguyên nhân của hạn lượng; si là nguyên nhân của hạn lượng.
Rāgo kho, āvuso, pamāṇakaraṇo, doso pamāṇakaraṇo, moho pamāṇakaraṇo.

Ðối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc và tham, sân, si này đã được chặt tận gốc như thân cây tala được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai.
Te khīṇāsavassa bhikkhuno pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṃ anuppādadhammā.

Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô lượng, thì bất động tâm giải thoát được gọi là tối thượng đối với các tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát không có tham, không có sân, không có si.
Yāvatā kho, āvuso, appamāṇā cetovimuttiyo, akuppā tāsaṃ cetovimutti aggamakkhāyati. Sā kho panākuppā cetovimutti suññā rāgena, suññā dosena, suññā mohena.

Tham, này Hiền giả, là một vật gì (chướng ngại), sân là một vật gì (chướng ngại), si là một vật gì (chướng ngại).
Rāgo kho, āvuso, kiñcano, doso kiñcano, moho kiñcano.

Ðối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc, thì tham, sân, si này đã được chặt tận gốc, như thân cây Tālā được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai.
Te khīṇāsavassa bhikkhuno pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṃ anuppādadhammā.

Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô sở hữu, thì bất động tâm giải thoát được gọi là tối thượng đối với các tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát ấy không có tham, không có sân, không có si.
Yāvatā kho, āvuso, ākiñcaññā cetovimuttiyo, akuppā tāsaṃ cetovimutti aggamakkhāyati. Sā kho panākuppā cetovimutti suññā rāgena, suññā dosena, suññā mohena.

Tham, này Hiền giả, là nhân tạo ra tướng, sân là nhân tạo ra tướng, si là nhân tạo ra tướng.
Rāgo kho, āvuso, nimittakaraṇo, doso nimittakaraṇo, moho nimittakaraṇo.

Ðối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc, thì tham, sân, si này được chặt tận gốc, như thân cây Tālā được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai.
Te khīṇāsavassa bhikkhuno pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṃ anuppādadhammā.

Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô tướng, thì bất động tâm giải thoát được gọi là tối thượng đối với các tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát này không có tham, không có sân, không có si.
Yāvatā kho, āvuso, animittā cetovimuttiyo, akuppā tāsaṃ cetovimutti aggamakkhāyati. Sā kho panākuppā cetovimutti suññā rāgena, suññā dosena, suññā mohena.

Như vậy, này Hiền giả, là pháp môn này, những pháp ấy là đồng nghĩa nhưng danh sai biệt.”
Ayaṃ kho, āvuso, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma ime dhammā ekatthā byañjanameva nānan”ti.

Tôn giả Sāriputta thuyết giảng như vậy.
Idamavocāyasmā sāriputto.

Tôn giả Mahākoṭṭhita hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Sāriputta dạy.
Attamano āyasmā mahākoṭṭhiko āyasmato sāriputtassa bhāsitaṃ abhinandīti.

Mahāvedallasuttaṃ niṭṭhitaṃ tatiyaṃ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt