Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Majjhima Nikāya - Trung Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trung Bộ 66

Trung Bộ 66
Majjhima Nikāya 66

Kinh Ví Dụ Con Chim Cút
Laṭukikopamasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời, Thế Tôn ở tại Aṅguttarāpan (Ương-già Bắc Phương Thủy). Āpaṇa là một thị tứ của Aṅguttarāpan.
ekaṃ samayaṃ bhagavā aṅguttarāpesu viharati āpaṇaṃ nāma aṅguttarāpānaṃ nigamo.

Rồi Thế Tôn buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Āpaṇa để khất thực.
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya āpaṇaṃ piṇḍāya pāvisi.

Khất thực ở Āpaṇa xong, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, Thế Tôn đi đến một khu rừng để trú ban ngày.
Āpaṇe piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto yenaññataro vanasaṇḍo tenupasaṅkami divāvihārāya.

Thế Tôn đi sâu vào khu rừng này, ngồi dưới một gốc cây để trú ban ngày.
Taṃ vanasaṇḍaṃ ajjhogāhetvā aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisīdi.

Tôn giả Udāyī (Ưu-đa-di) buổi sáng cũng đắp y, cầm y bát đi vào Āpaṇa để khất thực.
Āyasmāpi kho udāyī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya āpaṇaṃ piṇḍāya pāvisi.

Khất thực ở Āpaṇa xong, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, Tôn giả đi đến một khu rừng để trú ban ngày.
Āpaṇe piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto yena so vanasaṇḍo tenupasaṅkami divāvihārāya.

Tôn giả đi sâu vào khu rừng này, và ngồi dưới một gốc cây để trú ban ngày.
Taṃ vanasaṇḍaṃ ajjhogāhetvā aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisīdi.

Rồi Tôn giả Udāyī, trong khi độc cư Thiền tịnh, sự suy tư sau đây đã khởi lên trong tâm trí Tôn giả:
Atha kho āyasmato udāyissa rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi:

“Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
“bahūnaṃ vata no bhagavā dukkhadhammānaṃ apahattā, bahūnaṃ vata no bhagavā sukhadhammānaṃ upahattā;

Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều bất thiện pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều thiện pháp cho chúng ta”.
bahūnaṃ vata no bhagavā akusalānaṃ dhammānaṃ apahattā, bahūnaṃ vata no bhagavā kusalānaṃ dhammānaṃ upahattā”ti.

Rồi Tôn giả Udāyī vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Udāyī bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā udāyī sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā udāyī bhagavantaṃ etadavoca:

Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi con đang độc cư Thiền tịnh, sự suy tư sau đây đã khởi lên trong tâm trí con:
“idha mayhaṃ, bhante, rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi:

“Như Lai thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta…
‘bahūnaṃ vata no bhagavā dukkhadhammānaṃ apahattā, bahūnaṃ vata no bhagavā sukhadhammānaṃ upahattā;

Như Lai thật sự là vị đã mang lại nhiều thiện pháp cho chúng ta”.
bahūnaṃ vata no bhagavā akusalānaṃ dhammānaṃ apahattā, bahūnaṃ vata no bhagavā kusalānaṃ dhammānaṃ upahattā’ti.

Bạch Thế Tôn, thuở trước chúng con thường ăn buổi chiều, buổi sáng, ban ngày và phi thời.
Mayañhi, bhante, pubbe sāyañceva bhuñjāma pāto ca divā ca vikāle.

Bạch Thế Tôn, thời ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo và bảo:
Ahu kho so, bhante, samayo yaṃ bhagavā bhikkhū āmantesi:

“Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ ăn ban ngày phi thời”.
‘iṅgha tumhe, bhikkhave, etaṃ divāvikālabhojanaṃ pajahathā’ti.

Bạch Thế Tôn, do vậy con cảm thấy thất vọng, con cảm thấy sầu muộn, nghĩ rằng:
Tassa mayhaṃ, bhante, ahudeva aññathattaṃ, ahudeva domanassaṃ:

“Những món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm, các tín chủ cúng dường cho chúng ta ban ngày và phi thời. Nay Thế Tôn dạy chúng ta phải đoạn trừ, bậc Thiện Thệ dạy chúng ta phải từ bỏ”.
‘yampi no saddhā gahapatikā divā vikāle paṇītaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ denti tassapi no bhagavā pahānamāha, tassapi no sugato paṭinissaggamāhā’ti.

Bạch Thế Tôn, giữa chúng con, những ai nhìn Thế Tôn với lòng ái mộ, với lòng tôn kính và với lòng tàm quý, liền từ bỏ ăn ban ngày phi thời.
Te mayaṃ, bhante, bhagavati pemañca gāravañca hiriñca ottappañca sampassamānā evaṃ taṃ divāvikālabhojanaṃ pajahimhā.

Rồi bạch Thế Tôn, chúng con thường ăn buổi chiều và buổi sáng.
Te mayaṃ, bhante, sāyañceva bhuñjāma pāto ca.

Bạch Thế Tôn, thời ấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo và bảo:
Ahu kho so, bhante, samayo yaṃ bhagavā bhikkhū āmantesi:

“Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ ăn ban đêm phi thời”.
‘iṅgha tumhe, bhikkhave, etaṃ rattiṃvikālabhojanaṃ pajahathā’ti.

Bạch Thế Tôn, do vậy con cảm thấy thất vọng, con cảm thấy sầu muộn, nghĩ rằng:
Tassa mayhaṃ, bhante, ahudeva aññathattaṃ ahudeva domanassaṃ:

“Buổi ăn này gọi là có thượng vị hơn trong hai buổi ăn này của chúng ta. Thế Tôn dạy chúng ta phải đoạn trừ, bậc Thiện Thệ dạy chúng ta phải từ bỏ”.
‘yampi no imesaṃ dvinnaṃ bhattānaṃ paṇītasaṅkhātataraṃ tassapi no bhagavā pahānamāha, tassapi no sugato paṭinissaggamāhā’ti.

Bạch Thế Tôn, thuở xưa có người được một món ăn cúng ban ngày bèn nói:
Bhūtapubbaṃ, bhante, aññataro puriso divā sūpeyyaṃ labhitvā evamāha:

“Hãy để món ăn này một bên, và ban đêm tất cả chúng ta cùng ăn với nhau”.
‘handa ca imaṃ nikkhipatha, sāyaṃ sabbeva samaggā bhuñjissāmā’ti.

Bạch Thế Tôn, phàm mọi sự nấu nướng, tất cả đều làm ban đêm, rất ít làm ban ngày.
Yā kāci, bhante, saṅkhatiyo sabbā tā rattiṃ, appā divā.

Bạch Thế Tôn, giữa chúng con, những ai nhìn Thế Tôn với lòng ái mộ, với lòng tôn kính và với lòng tàm quý, liền từ bỏ ăn ban đêm phi thời.
Te mayaṃ, bhante, bhagavati pemañca gāravañca hiriñca ottappañca sampassamānā evaṃ taṃ rattiṃvikālabhojanaṃ pajahimhā.

Thuở trước, bạch Thế Tôn, các vị Tỷ-kheo thường đi khất thực trong đêm đen tối tăm, họ bước lầm vào vũng nước nhớp, rơi vào vũng nước nhớp, đi lầm vào hàng rào gai, đi lầm vào chỗ con bò cái đang ngủ, gặp các loại đạo tặc đã hành sự hay chưa hành sự, gặp các người đàn bà mời mọc một cách bất chánh.
Bhūtapubbaṃ, bhante, bhikkhū rattandhakāratimisāyaṃ piṇḍāya carantā candanikampi pavisanti, oligallepi papatanti, kaṇṭakāvāṭampi ārohanti, suttampi gāviṃ ārohanti, māṇavehipi samāgacchanti katakammehipi akatakammehipi, mātugāmopi te asaddhammena nimanteti.

Thuở trước, bạch Thế Tôn, con đi khất thực trong đêm đen tối tăm.
Bhūtapubbāhaṃ, bhante, rattandhakāratimisāyaṃ piṇḍāya carāmi.

Một người đàn bà đang rửa chén bát, thấy con trong khi trời chớp nhoáng,
Addasā kho maṃ, bhante, aññatarā itthī vijjantarikāya bhājanaṃ dhovantī.

liền hoảng sợ và hét lớn:
Disvā maṃ bhītā vissaramakāsi:

“Ôi kinh khủng thay cho tôi, có con quỷ (chạy) theo tôi!”
‘abhumme pisāco vata man’ti.

Bạch Thế Tôn, khi nghe nói vậy, con nói với người đàn bà ấy:
Evaṃ vutte, ahaṃ, bhante, taṃ itthiṃ etadavocaṃ:

“Này chị, không phải quỷ đâu.
‘nāhaṃ, bhagini, pisāco;

Ðây là Tỷ-kheo đang đứng khất thực”.
bhikkhu piṇḍāya ṭhito’ti.

“Cha Tỷ-kheo hãy chết đi! Mẹ Tỷ-kheo hãy chết đi!
‘Bhikkhussa ātumārī, bhikkhussa mātumārī.

Này Tỷ-kheo, thật tốt hơn cho Ông nếu Ông lấy con dao sắc bén của người đồ tể cắt bụng của Ông, còn hơn là vì lỗ bụng đi khất thực trong ban đêm tối tăm”.
Varaṃ te, bhikkhu, tiṇhena govikantanena kucchi parikanto, na tveva varaṃ yaṃ rattandhakāratimisāyaṃ kucchihetu piṇḍāya carasī’ti.

Bạch Thế Tôn, khi con nhớ như vậy, con suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, bhante, tadanussarato evaṃ hoti:

“Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
‘bahūnaṃ vata no bhagavā dukkhadhammānaṃ apahattā, bahūnaṃ vata no bhagavā sukhadhammānaṃ upahattā;

Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều bất thiện pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều thiện pháp cho chúng ta”.
bahūnaṃ vata no bhagavā akusalānaṃ dhammānaṃ apahattā, bahūnaṃ vata no bhagavā kusalānaṃ dhammānaṃ upahattā’”ti.

Tuy vậy, này Udāyī, ở đây có một số người ngu si; khi Ta nói: “Hãy từ bỏ việc này”, liền nói như sau:
“Evameva panudāyi, idhekacce moghapurisā ‘idaṃ pajahathā’ti mayā vuccamānā te evamāhaṃsu:

“Có sá gì sự việc tiểu tiết, nhỏ mọn này. Sa-môn này đặt quá nặng về cấm đoán đoạn giảm”.
‘kiṃ panimassa appamattakassa oramattakassa adhisallikhatevāyaṃ samaṇo’ti.

Họ không chịu từ bỏ và gây lên bất mãn chống Ta và chống những Tỷ-kheo muốn (thực hành) học giới.
Te tañceva nappajahanti, mayi ca appaccayaṃ upaṭṭhāpenti.

Sự việc ấy, này Udāyī, đối với họ, trở thành một trói buộc mạnh mẽ, một trói buộc vững chắc, một trói buộc kiên cường, một trói buộc không mục nát, một khúc gỗ to lớn.
Ye ca bhikkhū sikkhākāmā tesaṃ taṃ, udāyi, hoti balavaṃ bandhanaṃ, daḷhaṃ bandhanaṃ, thiraṃ bandhanaṃ, apūtikaṃ bandhanaṃ, thūlo, kaliṅgaro—

Ví như, này Udāyī, có con chim cáy mái nhỏ bị tấm lưới bằng dây leo trói chặt, ở đây con chim có thể bị hại, hay bị bắt nhốt, hay bị chết.
seyyathāpi, udāyi, laṭukikā sakuṇikā pūtilatāya bandhanena baddhā tattheva vadhaṃ vā bandhaṃ vā maraṇaṃ vā āgameti.

Này Udāyī, nếu có ai nói như sau:
Yo nu kho, udāyi, evaṃ vadeyya:

“Con chim cáy mái nhỏ ấy bị tấm lưới làm bằng dây leo trói chặt, ở đây, con chim có thể bị sát hại, hay bị bắt nhốt, hay bị chết. Tuy vậy đối với con chim kia, lưới ấy không có chắc mạnh, lưới ấy yếu ớt, lưới ấy bị mục nát, lưới ấy không có cứng chắc”.
‘yena sā laṭukikā sakuṇikā pūtilatāya bandhanena baddhā tattheva vadhaṃ vā bandhaṃ vā maraṇaṃ vā āgameti, tañhi tassā abalaṃ bandhanaṃ, dubbalaṃ bandhanaṃ, pūtikaṃ bandhanaṃ, asārakaṃ bandhanan’ti;

Này Udāyī, ai nói như vậy có phải nói một cách chơn chánh không?
sammā nu kho so, udāyi, vadamāno vadeyyā”ti?

“Bạch Thế Tôn, không.
“No hetaṃ, bhante.

Bạch Thế Tôn, con chim cáy mái nhỏ ấy bị tấm lưới làm bằng dây leo trói chặt, ở đấy con chim có thể bị sát hại, hay bị bắt nhốt, hay bị chết. Ðối với con chim kia, lưới ấy là mạnh mẽ, lưới ấy là vững chắc, lưới ấy là kiên cường, lưới ấy không mục nát, một khúc gỗ to lớn.”
Yena sā, bhante, laṭukikā sakuṇikā pūtilatāya bandhanena baddhā tattheva vadhaṃ vā bandhaṃ vā maraṇaṃ vā āgameti, tañhi tassā balavaṃ bandhanaṃ, daḷhaṃ bandhanaṃ, thiraṃ bandhanaṃ apūtikaṃ bandhanaṃ, thūlo, kaliṅgaro”ti.

“Cũng vậy, này Udāyī, ở đây, có một số người ngu si, khi được Ta nói: “Hãy từ bỏ việc này”, liền nói như sau:
“Evameva kho, udāyi, idhekacce moghapurisā ‘idaṃ pajahathā’ti mayā vuccamānā te evamāhaṃsu:

“Có sá gì việc tiểu tiết, nhỏ mọn này! Vị Sa-môn này đặt quá nặng về cấm đoán, đoạn giảm”,
‘kiṃ panimassa appamattakassa oramattakassa adhisallikhatevāyaṃ samaṇo’ti?

và họ không chịu từ bỏ và gây lên bất mãn chống Ta
Te tañceva nappajahanti, mayi ca appaccayaṃ upaṭṭhāpenti.

và chống những Tỷ-kheo muốn (thực hành) học giới. Sự việc này, này Udāyī, đối với họ trở thành một trói buộc mạnh mẽ, một trói buộc vững chắc, một trói buộc kiên cường, một trói buộc không mục nát, một khúc gỗ to lớn.
Ye ca bhikkhū sikkhākāmā tesaṃ taṃ, udāyi, hoti balavaṃ bandhanaṃ, daḷhaṃ bandhanaṃ, thiraṃ bandhanaṃ, apūtikaṃ bandhanaṃ, thūlo, kaliṅgaro.

Nhưng này Udāyī, một số Thiện gia nam tử, khi được Ta nói: “Hãy từ bỏ sự việc này”, liền nói như sau:
Idha panudāyi, ekacce kulaputtā ‘idaṃ pajahathā’ti mayā vuccamānā te evamāhaṃsu:

“Có sá gì sự từ bỏ việc tiểu tiết, nhỏ mọn này mà Thế Tôn dạy chúng con phải đoạn trừ, bậc Thiện Thệ dạy chúng con phải từ bỏ!”.
‘kiṃ panimassa appamattakassa oramattakassa pahātabbassa yassa no bhagavā pahānamāha, yassa no sugato paṭinissaggamāhā’ti?

Họ từ bỏ sự việc ấy, và không gây lên bất mãn chống Ta
Te tañceva pajahanti, mayi ca na appaccayaṃ upaṭṭhāpenti.

và chống các Tỷ-kheo muốn (thực hành) học giới. Sau khi từ bỏ việc ấy, họ sống ít lăng xăng, lắng dịu, tùy thuộc những người khác (bố thí), sống với một tâm như con thú rừng.
Ye ca bhikkhū sikkhākāmā te taṃ pahāya appossukkā pannalomā paradattavuttā migabhūtena cetasā viharanti.

Này Udāyī, như vậy đối với các vị kia, sự trói buộc ấy không có chắc mạnh, sự trói buộc ấy yếu ớt, sự trói buộc ấy bị mục nát, sự trói buộc ấy không có vững chắc.
Tesaṃ taṃ, udāyi, hoti abalaṃ bandhanaṃ, dubbalaṃ bandhanaṃ, pūtikaṃ bandhanaṃ, asārakaṃ bandhanaṃ—

Ví như, này Udāyī, một con voi của vua, có ngà dài như cán cày, to lớn, thuộc loại giống tốt, lấy bãi chiến trường làm nhà, nếu bị trói buộc bởi sự trói buộc bằng da nịt vững chắc, chỉ cần chuyển thân một cách dễ dàng, sau khi cắt đứt, bứt đứt những trói buộc ấy, có thể muốn đi chỗ nào nó muốn.
seyyathāpi, udāyi, rañño nāgo īsādanto urūḷhavā abhijāto saṅgāmāvacaro daḷhehi varattehi bandhanehi baddho īsakaṃyeva kāyaṃ sannāmetvā tāni bandhanāni saṃchinditvā sampadāletvā yena kāmaṃ pakkamati.

Này Udāyī, nếu có ai nói như sau:
Yo nu kho, udāyi, evaṃ vadeyya:

“Con voi của vua có ngà dài như một cán cày ấy, to lớn, thuộc loại giống tốt, lấy bãi chiến trường làm nhà, nếu bị trói buộc bởi sự trói buộc bằng da nịt vững chắc, chỉ cần chuyển thân một cách dễ dàng, sau khi cắt đứt, bứt đứt những trói buộc ấy, có thể muốn đi chỗ nào nó muốn. Tuy vậy đối với con voi kia, sự trói buộc ấy vững chắc, sự trói buộc ấy kiên cường, sự trói buộc ấy không mục nát, một khúc gỗ to lớn”.
‘yehi so rañño nāgo īsādanto urūḷhavā abhijāto saṅgāmāvacaro daḷhehi varattehi bandhanehi baddho īsakaṃyeva kāyaṃ sannāmetvā tāni bandhanāni saṃchinditvā sampadāletvā yena kāmaṃ pakkamati, tañhi tassa balavaṃ bandhanaṃ, daḷhaṃ bandhanaṃ, thiraṃ bandhanaṃ, apūtikaṃ bandhanaṃ, thūlo, kaliṅgaro’ti;

Này Udāyī, ai nói như vậy có phải nói một cách chơn chánh không?
sammā nu kho so, udāyi, vadamāno vadeyyā”ti?

“Bạch Thế Tôn, không.
“No hetaṃ, bhante.

Bạch Thế Tôn, con voi của vua có ngà dài như một cán cày ấy, to lớn, thuộc loại giống tốt, lấy bãi chiến trường làm nhà, nếu bị trói buộc bởi sự trói buộc bằng da nịt vững chắc, chỉ cần chuyển thân một cách dễ dàng, sau khi cắt đứt, bứt đứt những trói buộc ấy, có thể muốn đi chỗ nào nó muốn. Ðối với con voi kia, sự trói buộc ấy không có chắc mạnh, sự trói buộc ấy yếu ớt, sự trói buộc ấy bị mục nát, sự trói buộc ấy không có kiên cường.
Yehi so, bhante, rañño nāgo īsādanto urūḷhavā abhijāto saṅgāmāvacaro daḷhehi varattehi bandhanehi baddho īsakaṃyeva kāyaṃ sannāmetvā tāni bandhanāni saṃchinditvā sampadāletvā yena kāmaṃ pakkamati, tañhi tassa abalaṃ bandhanaṃ ...pe... asārakaṃ bandhanan”ti.

“Cũng vậy, này Udāyī, ở đây có một số Thiện gia nam tử khi được Ta nói: “Hãy từ bỏ sự việc này”, liền nói như sau:
“Evameva kho, udāyi, idhekacce kulaputtā ‘idaṃ pajahathā’ti mayā vuccamānā te evamāhaṃsu:

“Có sá chi việc tiểu tiết, nhỏ mọn này mà Thế Tôn dạy chúng con phải đoạn trừ, bậc Thiện Thệ dạy chúng con phải từ bỏ !”
‘kiṃ panimassa appamattakassa oramattakassa pahātabbassa yassa no bhagavā pahānamāha, yassa no sugato paṭinissaggamāhā’ti?

Họ từ bỏ việc ấy, và không gây lên bất mãn chống Ta.
Te tañceva pajahanti, mayi ca na appaccayaṃ upaṭṭhāpenti.

và chống các Tỷ-kheo muốn (thực hành) học giới. Sau khi từ bỏ việc ấy, họ sống ít lăng xăng, lắng dịu, tùy thuộc những người khác (bố thí), sống với một tâm như con thú rừng.
Ye ca bhikkhū sikkhākāmā te taṃ pahāya appossukkā pannalomā paradattavuttā migabhūtena cetasā viharanti.

Này Udāyī, như vậy đối với các vị kia sự trói buộc ấy không có chắc mạnh, sự trói buộc ấy yếu ớt, sự trói buộc ấy bị mục nát, sự trói buộc ấy không có vững chắc.
Tesaṃ taṃ, udāyi, hoti abalaṃ bandhanaṃ, dubbalaṃ bandhanaṃ, pūtikaṃ bandhanaṃ, asārakaṃ bandhanaṃ.

Ví như, này Udāyī, một người nghèo khổ, không có vật sở hữu, khốn cùng, có một chòi ở hư nát, mở toang cho quạ, không đẹp mắt chút nào, có một giường nằm hư nát, không đẹp mắt chút nào, các loại gạo lúa cất chứa trong một cái chum không đẹp mắt chút nào, và một bà vợ không đẹp mắt chút nào.
Seyyathāpi, udāyi, puriso daliddo assako anāḷhiyo; tassassa ekaṃ agārakaṃ oluggaviluggaṃ kākātidāyiṃ naparamarūpaṃ, ekā khaṭopikā oluggaviluggā naparamarūpā, ekissā kumbhiyā dhaññasamavāpakaṃ naparamarūpaṃ, ekā jāyikā naparamarūpā.

Người ấy thấy một Tỷ-kheo trong tịnh xá, tay chân lau rửa sạch sẽ, sau khi ăn buổi cơm ngon lành, đang ngồi trong bóng mát, hướng về tăng thượng tâm.
So ārāmagataṃ bhikkhuṃ passeyya sudhotahatthapādaṃ manuññaṃ bhojanaṃ bhuttāviṃ sītāya chāyāya nisinnaṃ adhicitte yuttaṃ.

Người ấy suy nghĩ:
Tassa evamassa:

“An lạc thay, Sa-môn hạnh! Vô bệnh thay, Sa-môn hạnh!
‘sukhaṃ vata bho sāmaññaṃ, ārogyaṃ vata bho sāmaññaṃ.

Vậy sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, ta hãy xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình”.
So vatassaṃ yohaṃ kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajeyyan’ti.

Nhưng người ấy không có thể từ bỏ cái chòi ở hư nát, mở toang cho quạ, không đẹp mắt chút nào, không có thể từ bỏ cái giường nằm hư nát, không đẹp mắt chút nào, không có thể từ bỏ các loại gạo lúa cất chứa trong một cái chum không đẹp mắt chút nào, không có thể từ bỏ bà vợ không đẹp mắt chút nào, để có thể sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
So na sakkuṇeyya ekaṃ agārakaṃ oluggaviluggaṃ kākātidāyiṃ naparamarūpaṃ pahāya, ekaṃ khaṭopikaṃ oluggaviluggaṃ naparamarūpaṃ pahāya, ekissā kumbhiyā dhaññasamavāpakaṃ naparamarūpaṃ pahāya, ekaṃ jāyikaṃ naparamarūpaṃ pahāya kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajituṃ.

Này Udāyī, nếu có ai nói như sau:
Yo nu kho, udāyi, evaṃ vadeyya:

“Người kia, bị trói buộc bởi những trói buộc ấy không có thể từ bỏ cái chòi ở hư nát… không có thể từ bỏ bà vợ không đẹp mắt chút nào để có thể sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
‘yehi so puriso bandhanehi baddho na sakkoti ekaṃ agārakaṃ oluggaviluggaṃ kākātidāyiṃ naparamarūpaṃ pahāya, ekaṃ khaṭopikaṃ oluggaviluggaṃ naparamarūpaṃ pahāya, ekissā kumbhiyā dhaññasamavāpakaṃ naparamarūpaṃ pahāya, ekaṃ jāyikaṃ naparamarūpaṃ pahāya kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajituṃ;

Ðối với người kia, sự trói buộc ấy không có chắc mạnh, sự trói buộc ấy yếu ớt, sự trói buộc ấy bị mục nát, sự trói buộc ấy không có vững chắc”,
tañhi tassa abalaṃ bandhanaṃ, dubbalaṃ bandhanaṃ, pūtikaṃ bandhanaṃ, asārakaṃ bandhanan’ti;

thời này Udāyī, ai nói như vậy có phải nói một cách chân chánh không?
sammā nu kho so, udāyi, vadamāno vadeyyā”ti?

“Bạch Thế Tôn, không.
“No hetaṃ, bhante.

Người kia bị trói buộc bởi những trói buộc ấy không thể từ bỏ chòi ở hư nát, mở toang cho quạ, không đẹp mắt chút nào, không thể từ bỏ giường nằm hư nát không đẹp mắt chút nào, không thể từ bỏ các loại gạo lúa cất chứa trong một cái chum không đẹp mắt chút nào, không thể từ bỏ bà vợ không đẹp mắt chút nào, để có thể, sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Yehi so, bhante, puriso bandhanehi baddho, na sakkoti ekaṃ agārakaṃ oluggaviluggaṃ kākātidāyiṃ naparamarūpaṃ pahāya, ekaṃ khaṭopikaṃ oluggaviluggaṃ naparamarūpaṃ pahāya, ekissā kumbhiyā dhaññasamavāpakaṃ naparamarūpaṃ pahāya, ekaṃ jāyikaṃ naparamarūpaṃ pahāya kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajituṃ;

Ðối với người kia, sự trói buộc ấy vững chắc, sự trói buộc ấy kiên cường, sự trói buộc ấy không mục nát, một khúc gỗ to lớn.”
tañhi tassa balavaṃ bandhanaṃ, daḷhaṃ bandhanaṃ, thiraṃ bandhanaṃ, apūtikaṃ bandhanaṃ, thūlo, kaliṅgaro”ti.

“Cũng vậy, này Udāyī, ở đây, có một số người ngu si khi được Ta nói ra: “Hãy từ bỏ việc này”, liền nói như sau:
“Evameva kho, udāyi, idhekacce moghapurisā ‘idaṃ pajahathā’ti mayā vuccamānā te evamāhaṃsu:

“Có sá gì sự việc tiểu tiết, nhỏ mọn này. Vị Sa-môn này đặt quá nặng về cấm đoán, đoạn giảm!”
‘kiṃ panimassa appamattakassa oramattakassa adhisallikhatevāyaṃ samaṇo’ti?

Và họ không chịu từ bỏ và gây lên bất mãn chống Ta
Te tañceva nappajahanti, mayi ca appaccayaṃ upaṭṭhāpenti.

và chống những Tỷ-kheo muốn (thực hành) học giới. Sự việc này, này Udāyī, đối với họ, trở thành một trói buộc mạnh mẽ, một trói buộc vững chắc, một trói buộc kiên cường, một trói buộc không mục nát, một khúc gỗ to lớn.
Ye ca bhikkhū sikkhākāmā tesaṃ taṃ, udāyi, hoti balavaṃ bandhanaṃ, daḷhaṃ bandhanaṃ, thiraṃ bandhanaṃ, apūtikaṃ bandhanaṃ, thūlo, kaliṅgaro.

Ví như, này Udāyī, một gia chủ hay con người gia chủ, giàu có, tài sản lớn, tiền của lớn, vô số vàng bạc, vô số gạo thóc, vô số ruộng nương, vô số đất đai, vô số thê thiếp, vô số đầy tớ nam, vô số nữ tỳ.
Seyyathāpi, udāyi, gahapati vā gahapatiputto vā aḍḍho mahaddhano mahābhogo, nekānaṃ nikkhagaṇānaṃ cayo, nekānaṃ dhaññagaṇānaṃ cayo, nekānaṃ khettagaṇānaṃ cayo, nekānaṃ vatthugaṇānaṃ cayo, nekānaṃ bhariyagaṇānaṃ cayo, nekānaṃ dāsagaṇānaṃ cayo, nekānaṃ dāsigaṇānaṃ cayo;

Vị này thấy một Tỷ-kheo trong một tinh xá, tay chân lau rửa sạch sẽ, sau khi ăn bữa cơm ngon lành, đang ngồi trong bóng mát, hướng về tăng thượng tâm.
so ārāmagataṃ bhikkhuṃ passeyya sudhotahatthapādaṃ manuññaṃ bhojanaṃ bhuttāviṃ sītāya chāyāya nisinnaṃ adhicitte yuttaṃ.

Vị này suy nghĩ:
Tassa evamassa:

“An lạc thay, Sa-môn hạnh! Vô bệnh thay, Sa-môn hạnh!
‘sukhaṃ vata bho sāmaññaṃ, ārogyaṃ vata bho sāmaññaṃ.

Vậy sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, ta hãy xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình”.
So vatassaṃ yohaṃ kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajeyyan’ti.

Vị này có thể từ bỏ vô số vàng bạc, có thể từ bỏ vô số gạo thóc, có thể từ bỏ vô số ruộng nương, có thể từ bỏ vô số đất đai, có thể từ bỏ vô số thê thiếp, có thể từ bỏ vô số đầy tớ nam, có thể từ bỏ vô số nữ tỳ.
So sakkuṇeyya nekāni nikkhagaṇāni pahāya, nekāni dhaññagaṇāni pahāya, nekāni khettagaṇāni pahāya, nekāni vatthugaṇāni pahāya, nekāni bhariyagaṇāni pahāya, nekāni dāsagaṇāni pahāya, nekāni dāsigaṇāni pahāya kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajituṃ.

Này Udāyī, nếu có ai nói như sau:
Yo nu kho, udāyi, evaṃ vadeyya:

“Người gia chủ hay con người gia chủ kia, bị trói buộc bởi những trói buộc ấy, có thể từ bỏ vô số vàng bạc … có thể từ bỏ vô số nữ tỳ để có thể sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ðối với người kia, sự trói buộc ấy vững chắc, sự trói buộc ấy kiên cường, sự trói buộc ấy không mục nát, một khúc gỗ to lớn”.
‘yehi so gahapati vā gahapatiputto vā bandhanehi baddho, sakkoti nekāni nikkhagaṇāni pahāya, nekāni dhaññagaṇāni pahāya, nekāni khettagaṇāni pahāya, nekāni vatthugaṇāni pahāya, nekāni bhariyagaṇāni pahāya, nekāni dāsagaṇāni pahāya, nekāni dāsigaṇāni pahāya kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajituṃ, tañhi tassa balavaṃ bandhanaṃ, daḷhaṃ bandhanaṃ, thiraṃ bandhanaṃ, apūtikaṃ bandhanaṃ, thūlo, kaliṅgaro’ti;

Này Udāyī, ai nói như vậy, có phải nói một cách chơn chánh không?
sammā nu kho so, udāyi, vadamāno vadeyyā”ti?

“Bạch Thế Tôn, không.
“No hetaṃ, bhante.

Người kia bị trói buộc bởi những trói buộc ấy có thể từ bỏ vô số vàng bạc, có thể từ bỏ vô số gạo thóc, có thể từ bỏ vô số ruộng nương, có thể từ bỏ vô số đất đai, có thể từ bỏ vô số thê thiếp, có thể từ bỏ vô số đầy tớ nam, có thể từ bỏ vô số nữ tỳ, để có thể, sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Yehi so, bhante, gahapati vā gahapatiputto vā bandhanehi baddho, sakkoti nekāni nikkhagaṇāni pahāya, nekāni dhaññagaṇāni pahāya, nekāni khettagaṇāni pahāya, nekāni vatthugaṇāni pahāya, nekāni bhariyagaṇāni pahāya, nekāni dāsagaṇāni pahāya, nekāni dāsigaṇāni pahāya kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajituṃ;

Ðối với người kia, sự trói buộc ấy không có chắc mạnh, sự trói buộc ấy yếu ớt, sự trói buộc ấy bị mục nát, sự trói buộc ấy không có vững chắc.”
tañhi tassa abalaṃ bandhanaṃ, dubbalaṃ bandhanaṃ, pūtikaṃ bandhanaṃ, asārakaṃ bandhanan”ti.

“Cũng vậy, này Udāyī, ở đây, có một số Thiện gia nam tử, khi được Ta nói: “Hãy từ bỏ việc này”, liền nói như sau:
“Evameva kho, udāyi, idhekacce kulaputtā ‘idaṃ pajahathā’ti mayā vuccamānā te evamāhaṃsu:

“Có sá chi sự việc tiểu tiết, nhỏ mọn này mà Thế Tôn dạy chúng con phải đoạn trừ, bậc Thiện Thệ dạy chúng con phải từ bỏ!”
‘kiṃ panimassa appamattakassa oramattakassa pahātabbassa yassa no bhagavā pahānamāha, yassa no sugato paṭinissaggamāhā’ti?

Họ từ bỏ sự việc ấy, và không gây lên bất mãn chống Ta.
Te tañceva pajahanti, mayi ca na appaccayaṃ upaṭṭhāpenti.

và chống các Tỷ-kheo muốn (thực hành) học giới. Sau khi từ bỏ sự việc ấy, họ sống ít lăng xăng, lắng dịu, tùy thuộc những người khác (bố thí), sống với một tâm như con thú rừng.
Ye ca bhikkhū sikkhākāmā te taṃ pahāya appossukkā pannalomā paradattavuttā migabhūtena cetasā viharanti.

Này Udāyī, như vậy đối với họ, sự trói buộc ấy không có chắc mạnh, sự trói buộc ấy yếu ớt, sự trói buộc ấy bị mục nát, sự trói buộc ấy không có vững chắc.
Tesaṃ taṃ, udāyi, hoti abalaṃ bandhanaṃ, dubbalaṃ bandhanaṃ, pūtikaṃ bandhanaṃ, asārakaṃ bandhanaṃ.

Này Udāyī, có bốn hạng người có mặt trên đời.
Cattārome, udāyi, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ.

Thế nào là bốn?
Katame cattāro?

Ở đây, này Udāyī, có người sống, hướng đến sự đoạn trừ sanh y, sự từ bỏ sanh y.
Idhudāyi, ekacco puggalo upadhipahānāya paṭipanno hoti upadhipaṭinissaggāya.

Nhưng trong khi vị này sống hướng đến sự đoạn trừ sanh y, sự từ bỏ sanh y, những tư niệm, tư duy liên hệ đến sanh y hiện hành khởi lên.
Tamenaṃ upadhipahānāya paṭipannaṃ upadhipaṭinissaggāya upadhipaṭisaṃyuttā sarasaṅkappā samudācaranti.

Vị này chấp nhận chúng, không đoạn trừ chúng, không từ bỏ chúng, không chấm dứt chúng, không tiêu diệt chúng.
So te adhivāseti, nappajahati, na vinodeti, na byantīkaroti, na anabhāvaṃ gameti.

Này Udāyī, Ta nói: “Người này bị trói buộc, không phải không bị trói buộc”.
Imaṃ kho ahaṃ, udāyi, puggalaṃ ‘saṃyutto’ti vadāmi no ‘visaṃyutto’.

Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?

Này Udāyī, sự sai biệt về căn tánh trong người này đã được Ta biết rõ.
Indriyavemattatā hi me, udāyi, imasmiṃ puggale viditā.

Nhưng ở đây, này Udāyī, có người sống, hướng đến sự đoạn trừ sanh y, sự từ bỏ sanh y.
Idha panudāyi, ekacco puggalo upadhipahānāya paṭipanno hoti upadhipaṭinissaggāya.

Nhưng trong khi vị này sống hướng đến sự đoạn trừ sanh y, sự từ bỏ sanh y, những tư niệm, tư duy liên hệ đến sanh y hiện hành khởi lên.
Tamenaṃ upadhipahānāya paṭipannaṃ upadhipaṭinissaggāya upadhipaṭisaṃyuttā sarasaṅkappā samudācaranti.

Nhưng vị này không chấp nhận chúng, đoạn trừ chúng, từ bỏ chúng, chấm dứt chúng, tiêu diệt chúng,
So te nādhivāseti, pajahati, vinodeti, byantīkaroti, anabhāvaṃ gameti.

Này Udāyī, Ta nói: “Người này bị trói buộc, không phải không bị trói buộc”.
Imampi kho ahaṃ, udāyi, puggalaṃ ‘saṃyutto’ti vadāmi no ‘visaṃyutto’.

Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?

Này Udāyī, sự sai biệt về căn tánh trong người này đã được Ta biết rõ.
Indriyavemattatā hi me, udāyi, imasmiṃ puggale viditā.

Nhưng ở đây, này Udāyī, có người sống, hướng đến sự đoạn trừ sanh y, sự từ bỏ sanh y.
Idha panudāyi, ekacco puggalo upadhipahānāya paṭipanno hoti upadhipaṭinissaggāya.

Nhưng trong khi vị này sống hướng đến sự đoạn trừ sanh y, sự từ bỏ sanh y, các tư niệm điên đảo, các tư niệm, tư duy liên hệ đến sanh y, tùy lúc tùy thời hiện hành khởi lên.
Tamenaṃ upadhipahānāya paṭipannaṃ upadhipaṭinissaggāya kadāci karahaci satisammosā upadhipaṭisaṃyuttā sarasaṅkappā samudācaranti;

Này Udāyī, niệm khởi lên chậm chạp.
dandho, udāyi, satuppādo.

và vị này đoạn trừ niệm ấy một cách mau chóng, từ bỏ, chấm dứt, tiêu diệt (niệm ấy).
Atha kho naṃ khippameva pajahati, vinodeti, byantīkaroti, anabhāvaṃ gameti.

Này Udāyī, ví như một người nhỏ hai hay ba giọt nước vào một ấm nước đun sôi cả ngày.
Seyyathāpi, udāyi, puriso divasaṃsantatte ayokaṭāhe dve vā tīṇi vā udakaphusitāni nipāteyya;

Này Udāyī giọt nước rơi một cách chậm chạp như bị tiêu diệt, tiêu mất một cách mau chóng.
dandho, udāyi, udakaphusitānaṃ nipāto. Atha kho naṃ khippameva parikkhayaṃ pariyādānaṃ gaccheyya.

Cũng vậy, này Udāyī, có người sống hướng đến sự đoạn trừ sanh y, sự từ bỏ sanh y.
Evameva kho, udāyi, idhekacco puggalo upadhipahānāya paṭipanno hoti upadhipaṭinissaggāya.

Nhưng trong khi vị này sống hướng đến sự đoạn trừ sanh y, sự từ bỏ sanh y, các tư niệm điên đảo, các tư niệm, tư duy liên hệ đến sanh y tùy lúc, tùy thời, hiện hành khởi lên.
Tamenaṃ upadhipahānāya paṭipannaṃ upadhipaṭinissaggāya kadāci karahaci satisammosā upadhipaṭisaṃyuttā sarasaṅkappā samudācaranti;

Này Udāyī, niệm khởi lên chậm chạp.
dandho, udāyi, satuppādo.

và vị này đoạn trừ niệm ấy một cách mau chóng, từ bỏ, chấm dứt, tiêu diệt (niệm ấy).
Atha kho naṃ khippameva pajahati, vinodeti, byantīkaroti, anabhāvaṃ gameti.

Này Udāyī, Ta nói: “Người này cũng bị trói buộc, không phải không bị trói buộc”.
Imampi kho ahaṃ, udāyi, puggalaṃ ‘saṃyutto’ti vadāmi no ‘visaṃyutto’.

Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?

Này Udāyī, sự sai biệt về căn tánh trong người này đã được Ta biết rõ.
Indriyavemattatā hi me, udāyi, imasmiṃ puggale viditā.

Nhưng ở đây, này Udāyī, có người nghĩ rằng: “Sanh y là nguồn gốc của đau khổ”, sau khi biết như vậy, vị ấy thành vô sanh y, giải thoát với sự đoạn diệt sanh y.
Idha panudāyi, ekacco puggalo ‘upadhi dukkhassa mūlan’ti—iti viditvā nirupadhi hoti, upadhisaṅkhaye vimutto.

Này Udāyī, Ta nói: “Người này không bị trói buộc, không phải bị trói buộc”.
Imaṃ kho ahaṃ, udāyi, puggalaṃ ‘visaṃyutto’ti vadāmi no ‘saṃyutto’ti.

Vì sao vậy?
Taṃ kissa hetu?

Này Udāyī, sự sai biệt về căn tánh trong người này đã được Ta biết rõ.
Indriyavemattatā hi me, udāyi, imasmiṃ puggale viditā.

Này Udāyī, đây là bốn hạng người được tìm thấy ở đời.
Ime kho, udāyi, cattāro puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ.

Này Udāyī, có năm dục trưởng dưỡng này.
Pañca kho ime, udāyi, kāmaguṇā.

Thế nào là năm?
Katame pañca?

Sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn.
Cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā,

Tiếng do tai nhận thức,…
sotaviññeyyā saddā ...pe...

hương do mũi nhận thức,…
ghānaviññeyyā gandhā …

vị do lưỡi nhận thức,…
jivhāviññeyyā rasā …

xúc do thân cảm xúc, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn.
kāyaviññeyyā phoṭṭhabbā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.

Những pháp này, này Udāyī, là năm dục trưởng dưỡng.
Ime kho, udāyi, pañca kāmaguṇā.

Này Udāyī, phàm có lạc gì, hỷ gì khởi lên, do duyên năm dục trưởng dưỡng này, lạc hỷ ấy được gọi là dục lạc, ô uế lạc, phàm phu lạc, phi Thánh lạc, không nên thực hiện, không nên tu tập, không nên làm cho sung mãn. Ta nói rằng lạc ấy đáng phải sợ hãi.
Yaṃ kho, udāyi, ime pañca kāmaguṇe paṭicca uppajjati sukhaṃ somanassaṃ idaṃ vuccati kāmasukhaṃ miḷhasukhaṃ puthujjanasukhaṃ anariyasukhaṃ, na sevitabbaṃ, na bhāvetabbaṃ, na bahulīkātabbaṃ; ‘bhāyitabbaṃ etassa sukhassā’ti vadāmi.

Ở đây, này Udāyī, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
Idhudāyi, bhikkhu vivicceva kāmehi ...pe... paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati

Diệt tầm và tứ, vị ấy chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhứt tâm.
vitakkavicārānaṃ vūpasamā ...pe... dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati,

Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba.
pītiyā ca virāgā ...pe... tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati,

Vị ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm, thanh tịnh.
sukhassa ca pahānā ...pe... catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati.

Như vậy được gọi là yếm ly lạc, độc trú lạc, tịch tịnh lạc, chánh giác lạc, cần phải thực hiện, cần phải tu tập, cần làm cho sung mãn. Ta nói rằng lạc ấy không đáng sợ hãi.
Idaṃ vuccati nekkhammasukhaṃ pavivekasukhaṃ upasamasukhaṃ sambodhasukhaṃ, āsevitabbaṃ, bhāvetabbaṃ, bahulīkātabbaṃ; ‘na bhāyitabbaṃ etassa sukhassā’ti vadāmi.

Ở đây, này Udāyī, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất.
Idhudāyi, bhikkhu vivicceva kāmehi ...pe... paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati;

Thiền này, này Udāyī, Ta nói rằng ở trong tình trạng dao động.
idaṃ kho ahaṃ, udāyi, iñjitasmiṃ vadāmi.

Và ở đây, cái gì dao động?
Kiñca tattha iñjitasmiṃ?

Ở đây, chính là tầm tứ chưa đoạn diệt, chính tầm tứ này ở trong tình trạng dao động.
Yadeva tattha vitakkavicārā aniruddhā honti idaṃ tattha iñjitasmiṃ.

Ở đây, này Udāyī, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ… chứng và trú Thiền thứ hai.
Idhudāyi, bhikkhu vitakkavicārānaṃ vūpasamā ...pe... dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati;

Các Thiền này, này Udāyī, Ta nói rằng ở trong tình trạng dao động.
idampi kho ahaṃ, udāyi, iñjitasmiṃ vadāmi.

Và ở đây, cái gì dao động?
Kiñca tattha iñjitasmiṃ?

Ở đây chính là hỷ lạc chưa được đoạn diệt, chính hỷ lạc này ở trong tình trạng dao động.
Yadeva tattha pītisukhaṃ aniruddhaṃ hoti idaṃ tattha iñjitasmiṃ.

Ở đây, này Udāyī, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả… chứng và trú Thiền thứ ba.
Idhudāyi, bhikkhu pītiyā ca virāgā ...pe... tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati;

Thiền này, này Udāyī, Ta nói ở trong tình trạng dao động.
idampi kho ahaṃ, udāyi, iñjitasmiṃ vadāmi.

Và ở đây, cái gì dao động?
Kiñca tattha iñjitasmiṃ?

Ở đây, chính là xả lạc chưa được đoạn diệt, chính xả lạc này ở trong tình trạng dao động.
Yadeva tattha upekkhāsukhaṃ aniruddhaṃ hoti idaṃ tattha iñjitasmiṃ.

Ở đây, này Udāyī, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ… chứng và trú Thiền thứ tư.
Idhudāyi, bhikkhu sukhassa ca pahānā ...pe... catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati;

Thiền này, này Udāyī, Ta nói là không ở trong tình trạng dao động.
idaṃ kho ahaṃ, udāyi, aniñjitasmiṃ vadāmi.

Ở đây, này Udāyī, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất.
Idhudāyi, bhikkhu vivicceva kāmehi ...pe... paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati;

Thiền này, này Udāyī, Ta nói: “Chưa được hoàn toàn”, Ta nói: “Hãy từ bỏ đi”, Ta nói: “Hãy vượt qua đi”.
idaṃ kho ahaṃ, udāyi, ‘analan’ti vadāmi, ‘pajahathā’ti vadāmi, ‘samatikkamathā’ti vadāmi.

và này Udāyī, vị ấy cần vượt qua cái gì?
Ko ca tassa samatikkamo?

Ở đây, này Udāyī, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ… chứng và trú Thiền thứ hai, đây là điều vị ấy cần vượt qua.
Idhudāyi, bhikkhu vitakkavicārānaṃ vūpasamā ...pe... dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati, ayaṃ tassa samatikkamo;

Thiền này, này Udāyī, Ta nói: “Chưa được hoàn toàn”, Ta nói: “Hãy từ bỏ đi”, Ta nói: “Hãy vượt qua đi”.
idampi kho ahaṃ, udāyi, ‘analan’ti vadāmi, ‘pajahathā’ti vadāmi, ‘samatikkamathā’ti vadāmi.

Và này, Udāyī, vị ấy cần vượt qua cái gì?
Ko ca tassa samatikkamo?

Ở đây, này Udāyī, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả… chứng và trú Thiền thứ ba, đây là điều vị ấy cần vượt qua.
Idhudāyi, bhikkhu pītiyā ca virāgā ...pe... tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati, ayaṃ tassa samatikkamo;

Thiền này, này Udāyī, Ta nói: “Chưa được hoàn toàn, Ta nói: “Hãy từ bỏ đi”, Ta nói: “Hãy vượt qua đi”.
idampi kho ahaṃ, udāyi, ‘analan’ti vadāmi, ‘pajahathā’ti vadāmi, ‘samatikkamathā’ti vadāmi.

Và này Udāyī, vị ấy cần vượt qua cái gì?
Ko ca tassa samatikkamo?

Ở đây, này Udāyī, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ… chứng và trú Thiền thứ tư. Ðây là điều vị ấy cần phải vượt qua.
Idhudāyi, bhikkhu sukhassa ca pahānā ...pe... catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati, ayaṃ tassa samatikkamo;

Thiền này, này Udāyī, Ta nói: “Chưa được hoàn toàn”, Ta nói: “Hãy từ bỏ đi”, Ta nói: “Hãy vượt qua đi”.
idampi kho ahaṃ, udāyi, ‘analan’ti vadāmi, ‘pajahathā’ti vadāmi, ‘samatikkamathā’ti vadāmi.

Và này Udāyī, vị ấy cần phải vượt qua cái gì?
Ko ca tassa samatikkamo?

Ở đây, này Udāyī, Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng, Tỷ-kheo nghĩ rằng: “Hư không là vô biên”, chứng và trú Không vô biên xứ. Ðây là điều vị ấy cần phải vượt qua.
Idhudāyi, bhikkhu sabbaso rūpasaññānaṃ samatikkamā paṭighasaññānaṃ atthaṅgamā nānattasaññānaṃ amanasikārā ‘ananto ākāso’ti ākāsānañcāyatanaṃ upasampajja viharati, ayaṃ tassa samatikkamo;

Thiền này, này Udāyī, Ta nói: “Chưa được hoàn toàn”, Ta nói: “Hãy từ bỏ đi”, Ta nói: “Hãy vượt qua đi”.
idampi kho ahaṃ, udāyi, ‘analan’ti vadāmi, ‘pajahathā’ti vadāmi, ‘samatikkamathā’ti vadāmi.

Và này Udāyī, vị ấy cần vượt qua cái gì?
Ko ca tassa samatikkamo?

Ở đây, này Udāyī, Tỷ-kheo vượt lên mọi Hư không vô biên xứ, nghĩ rằng: “Thức là vô biên”, chứng và trú Thức vô biên xứ. Ðây là điều vị ấy cần phải vượt qua.
Idhudāyi, bhikkhu sabbaso ākāsānañcāyatanaṃ samatikkamma ‘anantaṃ viññāṇan’ti viññāṇañcāyatanaṃ upasampajja viharati, ayaṃ tassa samatikkamo;

Thiền này, này Udāyī, Ta nói: “Chưa được hoàn toàn”, Ta nói: “Hãy từ bỏ đi”, Ta nói: “Hãy vượt qua đi”.
idampi kho ahaṃ, udāyi, ‘analan’ti vadāmi, ‘pajahathā’ti vadāmi, ‘samatikkamathā’ti vadāmi.

Và này Udāyī, vị ấy cần vượt qua cái gì?
Ko ca tassa samatikkamo?

Ở đây, này Udāyī, Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: “Không có vật gì”, chứng và trú Vô sở hữu xứ.
Idhudāyi, bhikkhu sabbaso viññāṇañcāyatanaṃ samatikkamma ‘natthi kiñcī’ti ākiñcaññāyatanaṃ upasampajja viharati, ayaṃ tassa samatikkamo;

Ðây là điều vị ấy cần phải vượt qua, Thiền này, này Udāyī, Ta nói: “Chưa được hoàn toàn”, Ta nói: “Hãy từ bỏ đi”, Ta nói: “Hãy vượt qua đi”.
idampi kho ahaṃ, udāyi, ‘analan’ti vadāmi, ‘pajahathā’ti vadāmi, ‘samatikkamathā’ti vadāmi.

Và này Udāyī, vị ấy cần vượt qua cái gì?
Ko ca tassa samatikkamo?

Ở đây, này Udāyī, Tỷ-kheo vượt lên mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ðây là điều vị ấy cần phải vượt qua.
Idhudāyi, bhikkhu sabbaso ākiñcaññāyatanaṃ samatikkamma nevasaññānāsaññāyatanaṃ upasampajja viharati, ayaṃ tassa samatikkamo;

Thiền này, này Udāyī, Ta nói: “Chưa được hoàn toàn”, Ta nói: “Hãy từ bỏ đi”, Ta nói: “Hãy vượt qua đi”.
idampi kho ahaṃ, udāyi, ‘analan’ti vadāmi, ‘pajahathā’ti vadāmi, ‘samatikkamathā’ti vadāmi.

Và này Udāyī, vị ấy cần vượt qua cái gì?
Ko ca tassa samatikkamo?

Ở đây, này Udāyī, Tỷ-kheo vượt lên mọi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng. Ðây là điều vị ấy cần phải vượt qua.
Idhudāyi, bhikkhu sabbaso nevasaññānāsaññāyatanaṃ samatikkamma saññāvedayitanirodhaṃ upasampajja viharati, ayaṃ tassa samatikkamo;

Chính vì định này, này Udāyī, mà Ta nói sự đoạn diệt của Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
iti kho ahaṃ, udāyi, nevasaññānāsaññāyatanassapi pahānaṃ vadāmi.

Này Udāyī, Ông có thấy chăng, có kiết sử gì, nhỏ hay lớn mà Ta chưa nói đến sự đoạn diệt?”
Passasi no tvaṃ, udāyi, taṃ saṃyojanaṃ aṇuṃ vā thūlaṃ vā yassāhaṃ no pahānaṃ vadāmī”ti?

“Bạch Thế Tôn, không.”
“No hetaṃ, bhante”ti.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Idamavoca bhagavā.

Tôn giả Udāyī hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn giảng.
Attamano āyasmā udāyī bhagavato bhāsitaṃ abhinandīti.

Laṭukikopamasuttaṃ niṭṭhitaṃ chaṭṭhaṃ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt