Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Majjhima Nikāya - Trung Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trung Bộ 72

Trung Bộ 72
Majjhima Nikāya 72

Kinh Vacchagotta Về Lửa
Aggivacchasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ) Jetavana (Kỳ-đà-Lâm), tại tinh xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc).
ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Rồi du sĩ ngoại đạo Vacchagotta đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, du sĩ ngoại đạo Vacchagotta bạch Thế Tôn:
Atha kho vacchagotto paribbājako yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho vacchagotto paribbājako bhagavantaṃ etadavoca:

Tôn giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama có tri kiến như sau: “Thế giới là thường trú, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”?
“Kiṃ nu kho, bho gotama, ‘sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan’ti—evaṃdiṭṭhi bhavaṃ gotamo”ti?

Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Thế giới là thường trú, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”.
“Na kho ahaṃ, vaccha, evaṃdiṭṭhi: ‘sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan’”ti.

Tôn giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama có tri kiến như sau: “Thế giới là vô thường, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”?
“Kiṃ pana, bho gotama, ‘asassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan’ti—evaṃdiṭṭhi bhavaṃ gotamo”ti?

Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Thế giới là vô thường, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”.
“Na kho ahaṃ, vaccha, evaṃdiṭṭhi: ‘asassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan’”ti.

Tôn giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama có tri kiến như sau: “Thế giới là hữu biên, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”?
“Kiṃ nu kho, bho gotama, ‘antavā loko, idameva saccaṃ moghamaññan’ti—evaṃdiṭṭhi bhavaṃ gotamo”ti?

Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Thế giới là hữu biên, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”.
“Na kho ahaṃ, vaccha, evaṃdiṭṭhi: ‘antavā loko, idameva saccaṃ moghamaññan’”ti.

Tôn giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama có tri kiến như sau: “Thế giới là vô biên, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”?
“Kiṃ pana, bho gotama, ‘anantavā loko, idameva saccaṃ moghamaññan’ti—evaṃdiṭṭhi bhavaṃ gotamo”ti?

Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Thế giới là vô biên, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”.
“Na kho ahaṃ, vaccha, evaṃdiṭṭhi: ‘anantavā loko, idameva saccaṃ moghamaññan’”ti.

Tôn giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama có tri kiến như sau: “Sinh mạng và thân thể là một, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”?
“Kiṃ nu kho, bho gotama, ‘taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ, idameva saccaṃ moghamaññan’ti—evaṃdiṭṭhi bhavaṃ gotamo”ti?

Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Sinh mạng và thân thể là một, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”.
“Na kho ahaṃ, vaccha, evaṃdiṭṭhi: ‘taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ, idameva saccaṃ moghamaññan’”ti.

Tôn giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama có tri kiến như sau: “Sinh mạng và thân thể là khác, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”?
“Kiṃ pana, bho gotama, ‘aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ, idameva saccaṃ moghamaññan’ti—evaṃdiṭṭhi bhavaṃ gotamo”ti?

Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Sinh mạng và thân thể là khác, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”.
“Na kho ahaṃ, vaccha, evaṃdiṭṭhi: ‘aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ, idameva saccaṃ moghamaññan’”ti.

Tôn giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama có tri kiến như sau: “Như Lai có tồn tại sau khi chết, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”?
“Kiṃ nu kho, bho gotama, ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan’ti—evaṃdiṭṭhi bhavaṃ gotamo”ti?

Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Như Lai có tồn tại sau khi chết, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”.
“Na kho ahaṃ, vaccha, evaṃdiṭṭhi: ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan’”ti.

Tôn giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama có tri kiến như sau: “Như Lai không có tồn tại sau khi chết, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”?
“Kiṃ pana, bho gotama, ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan’ti—evaṃdiṭṭhi bhavaṃ gotamo”ti?

Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Như Lai không có tồn tại sau khi chết, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”.
“Na kho ahaṃ, vaccha, evaṃdiṭṭhi: ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan’”ti.

Tôn giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama có tri kiến như sau: “Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”?
“Kiṃ nu kho, bho gotama, ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan’ti—evaṃdiṭṭhi bhavaṃ gotamo”ti?

Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”.
“Na kho ahaṃ, vaccha, evaṃdiṭṭhi: ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan’”ti.

Tôn giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama có tri kiến như sau: “Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”?
“Kiṃ pana, bho gotama, ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan’ti—evaṃdiṭṭhi bhavaṃ gotamo”ti?

Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”.
“Na kho ahaṃ, vaccha, evaṃdiṭṭhi: ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan’”ti.

Sao vậy, thưa Tôn giả Gotama? Khi được hỏi: “Phải chăng Tôn giả Gotama có tri kiến như sau: “Thế giới là thường trú, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng?”, Tôn giả Gotama đã trả lời: “Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Thế giới là thường trú, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”.
“‘Kiṃ nu kho, bho gotama, sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññanti—evaṃdiṭṭhi bhavaṃ gotamo’ti iti puṭṭho samāno ‘na kho ahaṃ, vaccha, evaṃdiṭṭhi—sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan’ti vadesi.

Sao vậy, thưa Tôn giả Gotama? Khi được hỏi: “Phải chăng Tôn giả Gotama có tri kiến như sau: “Thế giới là vô thường, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng?”, Tôn giả Gotama đã trả lời: “Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Thế giới là vô thường, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”.
‘Kiṃ pana, bho gotama, asassato loko, idameva saccaṃ moghamaññanti—evaṃdiṭṭhi bhavaṃ gotamo’ti iti puṭṭho samāno ‘na kho ahaṃ, vaccha, evaṃdiṭṭhi—asassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan’ti vadesi.

Sao vậy, thưa Tôn giả Gotama? Khi được hỏi: “Phải chăng Tôn giả Gotama có tri kiến như sau: “Thế giới là hữu biên, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng?”, Tôn giả Gotama đã trả lời: “Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Thế giới là hữu biên, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”.
‘Kiṃ nu kho, bho gotama, antavā loko, idameva saccaṃ moghamaññanti—evaṃdiṭṭhi bhavaṃ gotamo’ti iti puṭṭho samāno ‘na kho ahaṃ, vaccha, evaṃdiṭṭhi—antavā loko, idameva saccaṃ moghamaññan’ti vadesi.

Sao vậy, thưa Tôn giả Gotama? Khi được hỏi: “Phải chăng Tôn giả Gotama có tri kiến như sau: “Thế giới là vô biên, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”?, Tôn giả Gotama đã trả lời: “Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Thế giới là vô biên, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng” …
‘Kiṃ pana, bho gotama, anantavā loko, idameva saccaṃ moghamaññanti—evaṃdiṭṭhi bhavaṃ gotamo’ti iti puṭṭho samāno ‘na kho ahaṃ, vaccha, evaṃdiṭṭhi—anantavā loko, idameva saccaṃ moghamaññan’ti vadesi.

‘Kiṃ nu kho, bho gotama, taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ, idameva saccaṃ moghamaññanti—evaṃdiṭṭhi bhavaṃ gotamo’ti iti puṭṭho samāno ‘na kho ahaṃ, vaccha, evaṃdiṭṭhi—taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ, idameva saccaṃ moghamaññan’ti vadesi.

‘Kiṃ pana, bho gotama, aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ, idameva saccaṃ moghamaññanti—evaṃdiṭṭhi bhavaṃ gotamo’ti iti puṭṭho samāno ‘na kho ahaṃ, vaccha, evaṃdiṭṭhi—aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ, idameva saccaṃ moghamaññan’ti vadesi.

‘Kiṃ nu kho, bho gotama, hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññanti—evaṃdiṭṭhi bhavaṃ gotamo’ti iti puṭṭho samāno ‘na kho ahaṃ, vaccha, evaṃdiṭṭhi—hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan’ti vadesi.

‘Kiṃ pana, bho gotama, na hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññanti—evaṃdiṭṭhi bhavaṃ gotamo’ti iti puṭṭho samāno ‘na kho ahaṃ, vaccha, evaṃdiṭṭhi—na hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan’ti vadesi.

‘Kiṃ nu kho, bho gotama, hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññanti—
evaṃdiṭṭhi bhavaṃ gotamo’ti iti puṭṭho samāno ‘na kho ahaṃ, vaccha, evaṃdiṭṭhi—hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan’ti vadesi.

Sao vậy, thưa Tôn giả Gotama? Khi được hỏi: “Phải chăng Tôn giả Gotama có tri kiến như sau: “Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng?”, Tôn giả Gotama đã trả lời: “Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng” .
‘Kiṃ pana, bho gotama, neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññanti—evaṃdiṭṭhi bhavaṃ gotamo’ti iti puṭṭho samāno ‘na kho ahaṃ, vaccha, evaṃdiṭṭhi—neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan’ti vadesi.

Tôn giả Gotama thấy có sự nguy hại gì mà Ngài không chấp nhận hoàn toàn những tri kiến này như vậy?”
Kiṃ pana bho gotamo ādīnavaṃ sampassamāno evaṃ imāni sabbaso diṭṭhigatāni anupagato”ti?

“Này Vaccha, nghĩ rằng: “Thế giới là thường trú”, như vậy là tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược, đi đôi với khổ, với tàn hại, với não hại, với nhiệt não, không hướng đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
“‘Sassato loko’ti kho, vaccha, diṭṭhigatametaṃ diṭṭhigahanaṃ diṭṭhikantāro diṭṭhivisūkaṃ diṭṭhivipphanditaṃ diṭṭhisaṃyojanaṃ sadukkhaṃ savighātaṃ saupāyāsaṃ sapariḷāhaṃ, na nibbidāya na virāgāya na nirodhāya na upasamāya na abhiññāya na sambodhāya na nibbānāya saṃvattati.

Này Vaccha, nghĩ rằng: “Thế giới là thường trú”…
‘Asassato loko’ti kho, vaccha ...pe...

“Thế giới là vô thường”…
‘antavā loko’ti kho, vaccha ...pe...

“Thế giới là hữu biên”…
‘anantavā loko’ti kho, vaccha ...pe...

“Thế giới là vô biên”…
‘taṃ jīvaṃ taṃ sarīran’ti kho, vaccha ...pe...

“Sinh mạng và thân thể là một”…
‘aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīran’ti kho, vaccha ...pe...

“Sinh mạng và thân thể là khác”…
‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti kho, vaccha ...pe...

“Như Lai có tồn tại sau khi chết”…
‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti kho, vaccha ...pe...

“Như Lai không có tồn tại sau khi chết”…
‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti kho, vaccha ...pe...

“Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết”… Này Vaccha, nghĩ rằng: “Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”, như vậy là tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược, đi đôi với khổ, với tàn hại, với não hại, với nhiệt não, không hướng đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti kho, vaccha, diṭṭhigatametaṃ diṭṭhigahanaṃ diṭṭhikantāro diṭṭhivisūkaṃ diṭṭhivipphanditaṃ diṭṭhisaṃyojanaṃ sadukkhaṃ savighātaṃ saupāyāsaṃ sapariḷāhaṃ, na nibbidāya na virāgāya na nirodhāya na upasamāya na abhiññāya na sambodhāya na nibbānāya saṃvattati.

Này Vaccha, Ta thấy có sự nguy hại này mà Ta không chấp nhận hoàn toàn những tri kiến như vậy.”
Imaṃ kho ahaṃ, vaccha, ādīnavaṃ sampassamāno evaṃ imāni sabbaso diṭṭhigatāni anupagato”ti.

“Nhưng Tôn giả Gotama có tà kiến nào không?”
“Atthi pana bhoto gotamassa kiñci diṭṭhigatan”ti?

“Này Vaccha, tà kiến đã được Như Lai đoạn trừ.
“Diṭṭhigatanti kho, vaccha, apanītametaṃ tathāgatassa.

Nhưng này Vaccha, đây là điều Như Lai đã thấy:
Diṭṭhañhetaṃ, vaccha, tathāgatena:

“Ðây là sắc, đây là sắc tập, đây là sắc diệt;
‘iti rūpaṃ, iti rūpassa samudayo, iti rūpassa atthaṅgamo;

đây là thọ, đây là thọ tập, đây là thọ diệt;
iti vedanā, iti vedanāya samudayo, iti vedanāya atthaṅgamo;

đây là tưởng, đây là tưởng tập, đây là tưởng diệt;
iti saññā, iti saññāya samudayo, iti saññāya atthaṅgamo;

đây là hành, đây là hành tập, đây là hành diệt;
iti saṅkhārā, iti saṅkhārānaṃ samudayo, iti saṅkhārānaṃ atthaṅgamo;

đây là thức, đây là thức tập, đây là thức diệt”.
iti viññāṇaṃ, iti viññāṇassa samudayo, iti viññāṇassa atthaṅgamo’ti.

Do vậy, ta nói rằng, với sự đoạn trừ, ly tham, đoạn diệt, xả bỏ, vứt bỏ tất cả ảo tưởng của tất cả hôn mê, của tất cả ngã kiến, ngã sở kiến, mạn tùy miên, mà Như Lai được giải thoát, không còn chấp thủ.”
Tasmā tathāgato sabbamaññitānaṃ sabbamathitānaṃ sabba-ahaṅkāra-mamaṅkāra-mānānusayānaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā anupādā vimuttoti vadāmī”ti.

“Thưa Tôn giả Gotama, một Tỷ-kheo được tâm giải thoát như vậy sanh khởi chỗ nào?”
“Evaṃ vimuttacitto pana, bho gotama, bhikkhu kuhiṃ upapajjatī”ti?

“‘Sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng.”
“Upapajjatīti kho, vaccha, na upeti”.

“Như vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy không sanh khởi?”
“Tena hi, bho gotama, na upapajjatī”ti?

“‘Không sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng.”
“Na upapajjatīti kho, vaccha, na upeti”.

“Như vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy sanh khởi và không sanh khởi?”
“Tena hi, bho gotama, upapajjati ca na ca upapajjatī”ti?

“‘Sanh khởi và không sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng.”
“Upapajjati ca na ca upapajjatīti kho, vaccha, na upeti”.

“Như vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy không sanh khởi và không không sanh khởi?”
“Tena hi, bho gotama, neva upapajjati na na upapajjatī”ti?

“‘Không sanh khởi và không không sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng.”
“Neva upapajjati na na upapajjatīti kho, vaccha, na upeti”.

“Khi được hỏi: “Tôn giả Gotama, vị Tỷ-kheo được tâm giải thoát như vậy sanh khởi tại chỗ nào?”, Tôn giả đáp: “Sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng”.
“‘Evaṃ vimuttacitto pana, bho gotama, bhikkhu kuhiṃ upapajjatī’ti iti puṭṭho samāno ‘upapajjatīti kho, vaccha, na upetī’ti vadesi.

Khi được hỏi: “Như vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy không sanh khởi?” Tôn giả đáp: “Không sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng”.
‘Tena hi, bho gotama, na upapajjatī’ti iti puṭṭho samāno ‘na upapajjatīti kho, vaccha, na upetī’ti vadesi.

Khi được hỏi: “Như vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy sanh khởi và không sanh khởi?”, Tôn giả đáp: “Sanh khởi và không sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng”.
‘Tena hi, bho gotama, upapajjati ca na ca upapajjatī’ti iti puṭṭho samāno ‘upapajjati ca na ca upapajjatīti kho, vaccha, na upetī’ti vadesi.

Khi được hỏi: “Như vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy không sanh khởi và không không sanh khởi?”, Tôn giả đáp: “Không sanh khởi và không không sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng”.
‘Tena hi, bho gotama, neva upapajjati na na upapajjatī’ti iti puṭṭho samāno ‘neva upapajjati na na upapajjatīti kho, vaccha, na upetī’ti vadesi.

Thưa Tôn giả Gotama, tôi trở thành vô tri về điểm này, tôi trở thành mê mờ về điểm này,
Etthāhaṃ, bho gotama, aññāṇamāpādiṃ, ettha sammohamāpādiṃ.

và một số tin tưởng tôi đã có đối với Tôn giả Gotama do các cuộc đàm thoại lúc trước đem lại, nay đã biến mất nơi tôi.”
Yāpi me esā bhoto gotamassa purimena kathāsallāpena ahu pasādamattā sāpi me etarahi antarahitā”ti.

“Này Vaccha, thôi vừa rồi, vô tri của Ông! Thôi vừa rồi, mê mờ (của Ông)!
“Alañhi te, vaccha, aññāṇāya, alaṃ sammohāya.

Này Vaccha, sâu kín là pháp này, khó thấy, khó giác ngộ, an tịnh, thù thắng, không thể luận bàn, tế nhị, chỉ bậc trí mới hiểu.
Gambhīro hāyaṃ, vaccha, dhammo duddaso duranubodho santo paṇīto atakkāvacaro nipuṇo paṇḍitavedanīyo.

Thật rất khó cho Ông có thể hiểu được, khi Ông thuộc tri kiến khác, kham nhẫn khác, lý tưởng khác, hành trì khác, đạo sư khác.
So tayā dujjāno aññadiṭṭhikena aññakhantikena aññarucikena aññatrayogena aññatrācariyakena.

Và này Vaccha, nay Ta trở lại hỏi Ông. Hãy trả lời nếu Ông kham nhẫn.
Tena hi, vaccha, taññevettha paṭipucchissāmi; yathā te khameyya tathā naṃ byākareyyāsi.

Này Vaccha, Ông nghĩ thế nào?
Taṃ kiṃ maññasi, vaccha,

Nếu một ngọn lửa cháy đỏ trước mặt Ông, Ông có biết:
sace te purato aggi jaleyya, jāneyyāsi tvaṃ:

“Ngọn lửa này cháy đỏ trước mặt tôi?”
‘ayaṃ me purato aggi jalatī’”ti?

“Tôn giả Gotama, nếu một ngọn lửa cháy đỏ trước mặt tôi, tôi có biết:
“Sace me, bho gotama, purato aggi jaleyya, jāneyyāhaṃ:

‘Ngọn lửa này cháy đỏ trước mặt tôi’”?
‘ayaṃ me purato aggi jalatī’”ti.

“Nhưng nếu, này Vaccha, có người hỏi Ông như sau:
“Sace pana taṃ, vaccha, evaṃ puccheyya:

‘Ngọn lửa này cháy đỏ trước mặt Ông, ngọn lửa này do duyên gì mà cháy đỏ?’, nếu được hỏi vậy, này Vaccha, Ông trả lời như thế nào?
‘yo te ayaṃ purato aggi jalati ayaṃ aggi kiṃ paṭicca jalatī’ti, evaṃ puṭṭho tvaṃ, vaccha, kinti byākareyyāsī”ti?

Thưa Tôn giả Gotama, nếu có người hỏi tôi như sau:
“Sace maṃ, bho gotama, evaṃ puccheyya:

‘Ngọn lửa này cháy đỏ trước mặt Ông, ngọn lửa này do duyên gì mà cháy đỏ?’, nếu được hỏi vậy, thưa Tôn giả Gotama, tôi sẽ trả lời như sau:
‘yo te ayaṃ purato aggi jalati ayaṃ aggi kiṃ paṭicca jalatī’ti, evaṃ puṭṭho ahaṃ, bho gotama, evaṃ byākareyyaṃ:

‘Ngọn lửa cháy đỏ trước mặt tôi, ngọn lửa này cháy đỏ do duyên nhiên liệu cỏ và củi’”.
‘yo me ayaṃ purato aggi jalati ayaṃ aggi tiṇakaṭṭhupādānaṃ paṭicca jalatī’”ti.

Này Vaccha, nếu ngọn lửa ấy bị tắt trước mặt Ông, Ông có biết:
“Sace te, vaccha, purato so aggi nibbāyeyya, jāneyyāsi tvaṃ:

‘Ngọn lửa này đã tắt trước mặt tôi?’”
‘ayaṃ me purato aggi nibbuto’”ti?

Tôn giả Gotama, nếu ngọn lửa ấy được tắt trước mặt tôi, tôi sẽ biết:
“Sace me, bho gotama, purato so aggi nibbāyeyya, jāneyyāhaṃ:

“Ngọn lửa này đã tắt trước mặt tôi”.
‘ayaṃ me purato aggi nibbuto’”ti.

Này Vaccha, nếu có người hỏi Ông như sau:
“Sace pana taṃ, vaccha, evaṃ puccheyya:

‘Ngọn lửa này đã tắt trước mặt Ông, ngọn lửa ấy từ đây đã đi về phương hướng nào?
‘yo te ayaṃ purato aggi nibbuto so aggi ito katamaṃ disaṃ gato—

phương Ðông, phương Tây, phương Bắc, hay phương Nam’, được hỏi vậy, này Vaccha, Ông trả lời thế nào?”
puratthimaṃ vā dakkhiṇaṃ vā pacchimaṃ vā uttaraṃ vā’ti, evaṃ puṭṭho tvaṃ, vaccha, kinti byākareyyāsī”ti?

“Không có thể áp dụng ở đây, Tôn giả Gotama. Vì rằng, này Tôn giả Gotama, ngọn lửa ấy đã cháy vì duyên nhiên liệu cỏ và củi. Khi cỏ và củi ấy hết và vì không có nhiên liệu khác, nên được xem là không có nhiên liệu, đã bị tắt.”
“Na upeti, bho gotama, yañhi so, bho gotama, aggi tiṇakaṭṭhupādānaṃ paṭicca ajali tassa ca pariyādānā aññassa ca anupahārā anāhāro nibbutotveva saṅkhyaṃ gacchatī”ti.

“Cũng vậy, này Vaccha, do sắc pháp này, nhờ đó mà một người nhận biết Như Lai có thể nhận biết được, sắc pháp ấy đã được Như Lai đoạn diệt, cắt tận gốc rễ, làm cho như thân cây Thốt Nốt không được tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai.
“Evameva kho, vaccha, yena rūpena tathāgataṃ paññāpayamāno paññāpeyya taṃ rūpaṃ tathāgatassa pahīnaṃ ucchinnamūlaṃ tālāvatthukataṃ anabhāvaṅkataṃ āyatiṃ anuppādadhammaṃ.

Giải thoát khỏi cái gọi là sắc, này Vaccha, là Như Lai, thâm sâu, vô lượng, khó dò:
Rūpasaṅkhayavimutto kho, vaccha, tathāgato gambhīro appameyyo duppariyogāḷho—

đến đáy như đại dương.
seyyathāpi mahāsamuddo.

Khởi lên không có áp dụng, không khởi lên không có áp dụng, khởi lên và không khởi lên không có áp dụng, không khởi lên và không không khởi lên không có áp dụng.
Upapajjatīti na upeti, na upapajjatīti na upeti, upapajjati ca na ca upapajjatīti na upeti, neva upapajjati na na upapajjatīti na upeti.

Do thọ này, nhờ đó mà một người nhận biết Như Lai có thể nhận biết được, thọ ấy đã được Như Lai đoạn diệt, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây Thốt Nốt không được tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai.
Yāya vedanāya tathāgataṃ paññāpayamāno paññāpeyya sā vedanā tathāgatassa pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṃ anuppādadhammā.

Giải thoát cái gọi là thọ, này Vaccha, là Như Lai, thâm sâu, vô lượng khó dò
Vedanāsaṅkhayavimutto kho, vaccha, tathāgato gambhīro appameyyo duppariyogāḷho—

đến đáy đại dương,
seyyathāpi mahāsamuddo.

khởi lên không có áp dụng, không khởi lên không có áp dụng, khởi lên và không khởi lên không có áp dụng, không khởi lên và không không khởi lên không có áp dụng.
Upapajjatīti na upeti, na upapajjatīti na upeti, upapajjati ca na ca upapajjatīti na upeti, neva upapajjati na na upapajjatīti na upeti.

Do tưởng này, nhờ đó mà một người nhận biết Như Lai có thể nhận biết được, tưởng ấy đã được Như Lai đoạn diệt, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây Thốt Nốt không được tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai.
Yāya saññāya tathāgataṃ paññāpayamāno paññāpeyya sā saññā tathāgatassa pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṃ anuppādadhammā.

Giải thoát cái gọi là tưởng, này Vaccha, là Như Lai, thâm sâu, vô lượng, khó dò
Saññāsaṅkhayavimutto kho, vaccha, tathāgato gambhīro appameyyo duppariyogāḷho—

đến đáy đại dương,
seyyathāpi mahāsamuddo.

khởi lên không có áp dụng, không khởi lên không có áp dụng, khởi lên và không khởi lên không có áp dụng, không khởi lên và không không khởi lên không có áp dụng.
Upapajjatīti na upeti, na upapajjatīti na upeti, upapajjati ca na ca upapajjatīti na upeti, neva upapajjati na na upapajjatīti na upeti.

Do những hành này, nhờ đó mà một người nhận biết Như Lai có thể nhận biết được, các hành ấy đã được Như Lai đoạn diệt, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây Thốt Nốt không được tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai.
Yehi saṅkhārehi tathāgataṃ paññāpayamāno paññāpeyya te saṅkhārā tathāgatassa pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṃ anuppādadhammā.

Giải thoát những cái gọi là hành, này Vaccha, là Như Lai, thâm sâu, vô lượng khó dò:
Saṅkhārasaṅkhayavimutto kho, vaccha, tathāgato gambhīro appameyyo duppariyogāḷho—

đến đáy đại dương.
seyyathāpi mahāsamuddo.

khởi lên không có áp dụng, không khởi lên không có áp dụng, khởi lên và không khởi lên không có áp dụng, không khởi lên và không không khởi lên, không có áp dụng.
Upapajjatīti na upeti, na upapajjatīti na upeti, upapajjati ca na ca upapajjatīti na upeti, neva upapajjati na na upapajjatīti na upeti.

Do thức này, nhờ đó mà một người nhận biết Như Lai có thể nhận biết được, cái thức ấy đã được Như Lai đoạn diệt, cắt đứt được tận gốc rễ, làm cho như thân cây Thốt Nốt không được tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai.
Yena viññāṇena tathāgataṃ paññāpayamāno paññāpeyya taṃ viññāṇaṃ tathāgatassa pahīnaṃ ucchinnamūlaṃ tālāvatthukataṃ anabhāvaṅkataṃ āyatiṃ anuppādadhammaṃ.

Giải thoát cái gọi là thức, này Vaccha, là Như Lai, thâm sâu, vô lượng, khó dò
Viññāṇasaṅkhayavimutto kho, vaccha, tathāgato gambhīro appameyyo duppariyogāḷho—

đến đáy như đại dương.
seyyathāpi mahāsamuddo.

khởi lên không có áp dụng, không khởi lên không có áp dụng, khởi lên và không khởi lên không có áp dụng, không khởi lên và không không khởi lên không có áp dụng.
Upapajjatīti na upeti, na upapajjatīti na upeti, upapajjati ca na ca upapajjatīti na upeti, neva upapajjati na na upapajjatīti na upetī”ti.

Khi được nói vậy, du sĩ ngoại đạo Vacchagotta bạch Thế Tôn:
Evaṃ vutte, vacchagotto paribbājako bhagavantaṃ etadavoca:

“Thưa Tôn giả Gotama, như một cây Thốt Nốt lớn, không xa làng hay thị trấn.
“seyyathāpi, bho gotama, gāmassa vā nigamassa vā avidūre mahāsālarukkho.

vì vô thường nên cành lá rơi rụng, vỏ và đọt non rơi rụng, giác cây rơi rụng
Tassa aniccatā sākhāpalāsā palujjeyyuṃ, tacapapaṭikā palujjeyyuṃ, pheggū palujjeyyuṃ;

và sau một thời gian, với cành lá rơi rụng, với vỏ và đọt non rơi rụng, với giác cây rơi rụng, cây ấy thuần tịnh chỉ còn lại lõi cây.
so aparena samayena apagatasākhāpalāso apagatatacapapaṭiko apagataphegguko suddho assa, sāre patiṭṭhito;

Cũng vậy, lời nói này của Tôn giả Gotama, với cành lá rơi rụng, với vỏ và đọt non rụng, với giác cây rơi rụng, lời nói ấy thuần tịnh, chỉ còn lại lõi cây.
evameva bhoto gotamassa pāvacanaṃ apagatasākhāpalāsaṃ apagatatacapapaṭikaṃ apagatapheggukaṃ suddhaṃ, sāre patiṭṭhitaṃ.

Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y Tăng.
Abhikkantaṃ, bho gotama ...pe...

Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng.”
upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatan”ti.

Aggivacchasuttaṃ niṭṭhitaṃ dutiyaṃ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt