Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Majjhima Nikāya - Trung Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trung Bộ 95

Trung Bộ 95
Majjhima Nikāya 95

Kinh Caṅkī
Caṅkīsutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời Thế Tôn du hành trong nước Kosala cùng với Ðại chúng Tỷ-kheo, và đi đến một làng Bà-la-môn của dân chúng Kosala, tên là Opāsāda.
ekaṃ samayaṃ bhagavā kosalesu cārikaṃ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ yena opāsādaṃ nāma kosalānaṃ brāhmaṇagāmo tadavasari.

Thế Tôn trú tại Opāsāda, tại rừng chư Thiên (Devavana), rừng cây sala (Salavana), phía Bắc làng Opāsāda.
Tatra sudaṃ bhagavā opāsāde viharati uttarena opāsādaṃ devavane sālavane.

Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Caṅkī trú ở Opāsāda, một chỗ dân cư đông đúc, cây cỏ, ao nước, lúa gạo phì nhiêu, một vương địa do vua Pasenadi, vua nước Kosala cấp, một ân tứ của vua, một tịnh ấp.
Tena kho pana samayena caṅkī brāhmaṇo opāsādaṃ ajjhāvasati sattussadaṃ satiṇakaṭṭhodakaṃ sadhaññaṃ rājabhoggaṃ raññā pasenadinā kosalena dinnaṃ rājadāyaṃ brahmadeyyaṃ.

Các Bà-la-môn gia chủ ở Opāsāda được nghe:
Assosuṃ kho opāsādakā brāhmaṇagahapatikā:

“Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Sakya (Thích-ca) đang du hành ở Videha, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị”.
“samaṇo khalu, bho, gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito kosalesu cārikaṃ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ opāsādaṃ anuppatto, opāsāde viharati uttarena opāsādaṃ devavane sālavane.

Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama:
Taṃ kho pana bhavantaṃ gotamaṃ evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:

‘Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn’.
‘itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā’ti.

Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và loài Người.
So imaṃ lokaṃ sadevakaṃ samārakaṃ sabrahmakaṃ sassamaṇabrāhmaṇiṃ pajaṃ sadevamanussaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedeti.

Khi đã chứng ngộ, Ngài còn tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy đủ, Ngài tuyên dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, trong sạch.
So dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ, kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāseti.

Tốt đẹp thay sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy.”
Sādhu kho pana tathārūpānaṃ arahataṃ dassanaṃ hotī”ti.

Rồi các Bà-la-môn gia chủ ở Opāsāda, từng đoàn, từng đoàn lũ lượt đi ra khỏi Opāsāda và đi đến ngõ phía Bắc, rừng chư Thiên, rừng cây sala.
Atha kho opāsādakā brāhmaṇagahapatikā opāsādā nikkhamitvā saṅghasaṅghī gaṇībhūtā uttarenamukhā gacchanti yena devavanaṃ sālavanaṃ.

Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Caṅkī đi lên trên lầu để nghỉ trưa.
Tena kho pana samayena caṅkī brāhmaṇo uparipāsāde divāseyyaṃ upagato.

Bà-la-môn Caṅkī thấy các Bà-la-môn gia chủ ở Opāsāda từng đoàn, từng đoàn lũ lượt đi ra khỏi Opāsāda và đi đến ngõ phía Bắc, rừng chư Thiên, rừng cây sala.
Addasā kho caṅkī brāhmaṇo opāsādake brāhmaṇagahapatike opāsādā nikkhamitvā saṅghasaṅghī gaṇībhūte uttarenamukhaṃ yena devavanaṃ sālavanaṃ tenupasaṅkamante.

Thấy vậy, Bà-la-môn Caṅkī bèn gọi người gác cửa:
Disvā khattaṃ āmantesi:

“Này người Gác cửa, vì sao các Bà-la-môn gia chủ ở Opāsāda từng đoàn, từng đoàn lũ lượt đi ra khỏi Opāsāda và đi đến ngõ phía Bắc, rừng chư Thiên, rừng cây sala như vậy?”
“kiṃ nu kho, bho khatte, opāsādakā brāhmaṇagahapatikā opāsādā nikkhamitvā saṅghasaṅghī gaṇībhūtā uttarenamukhā gacchanti yena devavanaṃ sālavanan”ti?

“Thưa Tôn giả Caṅkī, có Sa-môn Gotama, dòng họ Thích-ca, xuất gia từ gia tộc Thích-ca đang du hành trong nước Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị.
“Atthi, bho caṅkī, samaṇo gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito kosalesu cārikaṃ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ opāsādaṃ anuppatto, opāsāde viharati uttarena opāsādaṃ devavane sālavane.

Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama:
Taṃ kho pana bhavantaṃ gotamaṃ evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:

‘Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.’
‘itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā’ti.

Nay những người ấy đi đến yết kiến Tôn giả Gotama.”
Tamete bhavantaṃ gotamaṃ dassanāya gacchantī”ti.

“Này người Gác cửa, hãy đi đến các Bà-la-môn gia chủ ở Opāsāda, khi đến nơi, hãy nói với những Bà-la-môn gia chủ:
“Tena hi, bho khatte, yena opāsādakā brāhmaṇagahapatikā tenupasaṅkama; upasaṅkamitvā opāsādake brāhmaṇagahapatike evaṃ vadehi:

‘Bà-la-môn Caṅkī có nói:
‘caṅkī, bho, brāhmaṇo evamāha—

Này các Hiền giả, hãy chờ đợi. Bà-la-môn Caṅkī sẽ tự thân hành đến yết kiến Sa-môn Gotama’”.
āgamentu kira bhonto, caṅkīpi brāhmaṇo samaṇaṃ gotamaṃ dassanāya upasaṅkamissatī’”ti.

“Thưa vâng, hiền giả,” người gác cửa đi đến các Bà-la-môn gia chủ ở Opāsāda, khi đến nơi, nói với những Bà-la-môn gia chủ:
“Evaṃ, bho”ti kho so khatto caṅkissa brāhmaṇassa paṭissutvā yena opāsādakā brāhmaṇagahapatikā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā opāsādake brāhmaṇagahapatike etadavoca:

“Này các hiền giả, Bà-la-môn Caṅkī có nói:
“caṅkī, bho, brāhmaṇo evamāha:

‘Này các Hiền giả, hãy chờ đợi. Bà-la-môn Caṅkī sẽ tự thân hành đến yết kiến Sa-môn Gotama’”.
‘āgamentu kira bhonto, caṅkīpi brāhmaṇo samaṇaṃ gotamaṃ dassanāya upasaṅkamissatī’”ti.

Lúc bấy giờ, có khoảng năm trăm Bà-la-môn, từ nhiều địa phương khác nhau, đến tại Opāsāda vì một vài công vụ.
Tena kho pana samayena nānāverajjakānaṃ brāhmaṇānaṃ pañcamattāni brāhmaṇasatāni opāsāde paṭivasanti kenacideva karaṇīyena.

Những Bà-la-môn nghe:
Assosuṃ kho te brāhmaṇā:

“Bà-la-môn Caṅkī sẽ đi yết kiến Sa-môn Gotama”.
“caṅkī kira brāhmaṇo samaṇaṃ gotamaṃ dassanāya upasaṅkamissatī”ti.

Những Bà-la-môn ấy đến Bà-la-môn Caṅkī, khi đến xong, liền thưa với Bà-la-môn Caṅkī:
Atha kho te brāhmaṇā yena caṅkī brāhmaṇo tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā caṅkiṃ brāhmaṇaṃ etadavocuṃ:

“Có phải Tôn giả Caṅkī sẽ đến yết kiến Sa-môn Gotama?”
“saccaṃ kira bhavaṃ caṅkī samaṇaṃ gotamaṃ dassanāya upasaṅkamissatī”ti?

“Này các Hiền giả, đó là ý định của ta. Ta sẽ đến yết kiến Sa-môn Gotama.”
“Evaṃ kho me, bho, hoti: ‘ahaṃ samaṇaṃ gotamaṃ dassanāya upasaṅkamissāmī’”ti.

“Tôn giả Caṅkī, chớ có đến yết kiến Sa-môn Gotama.
“Mā bhavaṃ caṅkī samaṇaṃ gotamaṃ dassanāya upasaṅkami.

Thật không xứng đáng cho tôn giả Caṅkī đến yết kiến Sa-môn Gotama;
Na arahati bhavaṃ caṅkī samaṇaṃ gotamaṃ dassanāya upasaṅkamituṃ;

trái lại, thật xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiến Tôn giả Caṅkī.
samaṇotveva gotamo arahati bhavantaṃ caṅkiṃ dassanāya upasaṅkamituṃ.

Lại nữa, Tôn giả Caṅkī thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh.
Bhavañhi caṅkī ubhato sujāto mātito ca pitito ca saṃsuddhagahaṇiko yāva sattamā pitāmahayugā akkhitto anupakkuṭṭho jātivādena.

Vì Tôn giả Caṅkī thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một chỉ trích nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Do điểm này, thật không xứng đáng cho Tôn giả Caṅkī đến yết kiến Sa-môn Gotama;
Yampi bhavaṃ caṅkī ubhato sujāto mātito ca pitito ca saṃsuddhagahaṇiko yāva sattamā pitāmahayugā akkhitto anupakkuṭṭho jātivādena, imināpaṅgena na arahati bhavaṃ caṅkī samaṇaṃ gotamaṃ dassanāya upasaṅkamituṃ;

trái lại, thật xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiết Bà-la-môn Caṅkī.
samaṇotveva gotamo arahati bhavantaṃ caṅkiṃ dassanāya upasaṅkamituṃ.

Lại nữa, Tôn giả Caṅkī là nhà giàu có, đại phú, sung túc. …
Bhavañhi caṅkī aḍḍho mahaddhano mahābhogo ...pe...

Lại nữa, Tôn giả Caṅkī là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Veda với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài về Thuận thế luận và Ðại nhân tướng.
bhavañhi caṅkī tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū sanighaṇḍukeṭubhānaṃ sākkharappabhedānaṃ itihāsapañcamānaṃ, padako, veyyākaraṇo, lokāyatamahāpurisalakkhaṇesu anavayo ...pe...

Tôn giả Caṅkī đẹp trai, khả ái, làm đẹp lòng người, với màu da thù thắng, khôi ngô tuấn tú, cử chỉ trang nhã, dáng điệu cao thượng.
bhavañhi caṅkī abhirūpo dassanīyo pāsādiko paramāya vaṇṇapokkharatāya samannāgato brahmavaṇṇī brahmavacchasī akhuddāvakāso dassanāya ...pe...

Tôn giả Caṅkī có giới hạnh, trưởng thành trong giới hạnh, thành tựu sự trưởng thành trong giới hạnh.
bhavañhi caṅkī sīlavā vuddhasīlī vuddhasīlena samannāgato ...pe...

Tôn giả Caṅkī thiện ngôn, dùng lời thiện ngôn, nói lời tao nhã, ý nghĩa minh bạch, giọng nói không bập bẹ phều phào, giải thích nghĩa lý minh xác.
bhavañhi caṅkī kalyāṇavāco kalyāṇavākkaraṇo poriyā vācāya samannāgato vissaṭṭhāya anelagalāya atthassa viññāpaniyā ...pe...

Tôn giả Caṅkī là bậc Tôn sư của hàng Tôn sư nhiều người, dạy ba trăm thanh niên Bà-la-môn tụng đọc chú thuật.
bhavañhi caṅkī bahūnaṃ ācariyapācariyo, tīṇi māṇavakasatāni mante vāceti ...pe...

Tôn giả Candi được vua Pasenadi xứ Kosala kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng.
bhavañhi caṅkī rañño pasenadissa kosalassa sakkato garukato mānito pūjito apacito ...pe...

Tôn giả Caṅkī được Bà-la-môn Pokkarasati kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng.
bhavañhi caṅkī brāhmaṇassa pokkharasātissa sakkato garukato mānito pūjito apacito ...pe...

Tôn giả Caṅkī sống ở Opāsāda, một địa phương dân chúng đông đúc, cỏ cây, ao nước phì nhiêu, lúa gạo sung túc, một vương lãnh địa, một tịnh thí địa, một ân tứ của vua Pasenadi nước Kosala.
bhavañhi caṅkī opāsādaṃ ajjhāvasati sattussadaṃ satiṇakaṭṭhodakaṃ sadhaññaṃ rājabhoggaṃ raññā pasenadinā kosalena dinnaṃ rājadāyaṃ brahmadeyyaṃ.

Do điểm này, thật không xứng đáng cho Tôn giả Caṅkī đến yết kiến Sa-môn Gotama;
Yampi bhavaṃ caṅkī opāsādaṃ ajjhāvasati sattussadaṃ satiṇakaṭṭhodakaṃ sadhaññaṃ rājabhoggaṃ raññā pasenadinā kosalena dinnaṃ rājadāyaṃ brahmadeyyaṃ, imināpaṅgena na arahati bhavaṃ caṅkī samaṇaṃ gotamaṃ dassanāya upasaṅkamituṃ;

trái lại, thật xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiết Tôn giả Caṅkī.”
samaṇotveva gotamo arahati bhavantaṃ caṅkiṃ dassanāya upasaṅkamitun”ti.

Nghe nói vậy, Bà-la-môn Caṅkī nói với những vị Bà-la-môn ấy:
Evaṃ vutte, caṅkī brāhmaṇo te brāhmaṇe etadavoca:

Các Hiền giả hãy nghe ta giải thích, vì sao thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Sa-môn Gotama;
“tena hi, bho, mamapi suṇātha, yathā mayameva arahāma taṃ samaṇaṃ gotamaṃ dassanāya upasaṅkamituṃ;

trái lại, thật không xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiến chúng ta.
na tveva arahati so bhavaṃ gotamo amhākaṃ dassanāya upasaṅkamituṃ.

Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh.
Samaṇo khalu, bho, gotamo ubhato sujāto mātito ca pitito ca saṃsuddhagahaṇiko yāva sattamā pitāmahayugā akkhitto anupakkuṭṭho jātivādena.

Do điểm này thật không xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiến chúng ta, trái lại, thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Sa-môn Gotama.
Yampi, bho, samaṇo gotamo ubhato sujāto mātito ca pitito ca saṃsuddhagahaṇiko yāva sattamā pitāmahayugā akkhitto anupakkuṭṭho jātivādena, imināpaṅgena na arahati so bhavaṃ gotamo amhākaṃ dassanāya upasaṅkamituṃ;

thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Tôn giả Gotama.
atha kho mayameva arahāma taṃ bhavantaṃ gotamaṃ dassanāya upasaṅkamituṃ.

Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama xuất gia, từ bỏ rất nhiều vàng bạc, bỏ cả loại đang chôn dưới đất lẫn loại trên mặt đất.
Samaṇo khalu, bho, gotamo pahūtaṃ hiraññasuvaṇṇaṃ ohāya pabbajito bhūmigatañca vehāsaṭṭhañca ...pe...

Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama trong tuổi thanh niên, tóc còn đen nhánh, trong tuổi trẻ đẹp của thời niên thiếu, đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Samaṇo khalu, bho, gotamo daharova samāno yuvā susukāḷakeso bhadrena yobbanena samannāgato paṭhamena vayasā agārasmā anagāriyaṃ pabbajito ...pe...

Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama, dầu song thân không đồng ý, khóc than, nước mắt thấm ướt cả mặt, vẫn cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Samaṇo khalu, bho, gotamo akāmakānaṃ mātāpitūnaṃ assumukhānaṃ rudantānaṃ kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajito ...pe...

Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama đẹp trai, khả ái, làm đẹp lòng mọi người với màu da thù thắng, khôi ngô tuấn tú, cử chỉ trang nhã, dáng điệu cao thượng.
Samaṇo khalu, bho, gotamo abhirūpo dassanīyo pāsādiko paramāya vaṇṇapokkharatāya samannāgato brahmavaṇṇī brahmavacchasī akhuddāvakāso dassanāya ...pe...

Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama có giới hạnh, gìn giữ giới hạnh của bậc Thánh, có thiện đức, đầy đủ thiện đức.
Samaṇo khalu, bho, gotamo sīlavā ariyasīlī kusalasīlī kusalena sīlena samannāgato ...pe...

Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama thiện ngôn, dùng lời thiện ngôn, nói lời tao nhã, ý nghĩa minh bạch, giọng nói không bập bẹ, phều phào, giải thích nghĩa lý minh xác.
Samaṇo khalu, bho, gotamo kalyāṇavāco kalyāṇavākkaraṇo poriyā vācāya samannāgato vissaṭṭhāya anelagalāya atthassa viññāpaniyā ...pe...

Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama là bậc Tôn sư các hàng Tôn sư của nhiều người.
Samaṇo khalu, bho, gotamo bahūnaṃ ācariyapācariyo ...pe...

Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama đã diệt trừ tham dục, đã diệt được mọi xao động của tâm.
Samaṇo khalu, bho, gotamo khīṇakāmarāgo vigatacāpallo ...pe...

Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama chủ trương về nghiệp, chủ trương về hành động, đặt trọng tâm vào chí thiện khi thuyết pháp với chúng Bà-la-môn.
Samaṇo khalu, bho, gotamo kammavādī kiriyavādī apāpapurekkhāro brahmaññāya pajāya ...pe...

Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama xuất gia từ chủng tộc cao quý, từ dòng họ Sát-đế-lỵ thanh tịnh.
Samaṇo khalu, bho, gotamo uccā kulā pabbajito asambhinnā khattiyakulā ...pe...

Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama xuất gia từ chủng tộc khá giả, đại phú, tài sản sung mãn.
Samaṇo khalu, bho, gotamo aḍḍhā kulā pabbajito mahaddhanā mahābhogā ...pe...

Này các Hiền giả, thật vậy, dân chúng băng ngàn vượt biển băng qua nhiều địa phương, băng qua nhiều quốc độ, đến hỏi đạo Sa-môn Gotama.
Samaṇaṃ khalu, bho, gotamaṃ tiroraṭṭhā tirojanapadā saṃpucchituṃ āgacchanti ...pe...

Này các Hiền giả, thật vậy, có hàng ngàn Thiên nhân đến quy y Sa-môn Gotama.
Samaṇaṃ khalu, bho, gotamaṃ anekāni devatāsahassāni pāṇehi saraṇaṃ gatāni ...pe...

Này các Hiền giả, thật vậy, tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Sa-môn Gotama:
Samaṇaṃ khalu, bho, gotamaṃ evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:

“Ngài là bậc Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn”.
‘itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā’ti ...pe...

Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của bậc Ðại nhân.
Samaṇo khalu, bho, gotamo dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇehi samannāgato ...pe...

Này các Hiền giả, thật vậy, vua Seniya Bimbisāra nước Magadha, cùng với vương tử, cung phi, thị tùng đều quy y Sa-môn Gotama.
Samaṇaṃ khalu, bho, gotamaṃ rājā māgadho seniyo bimbisāro saputtadāro pāṇehi saraṇaṃ gato ...pe...

Này các Hiền giả, thật vậy, vua Pasenadi nước Kosala, cùng với nương tử, cung phi, thị tùng đều quy y Sa-môn Gotama.
Samaṇaṃ khalu, bho, gotamaṃ rājā pasenadi kosalo saputtadāro pāṇehi saraṇaṃ gato ...pe...

Này các Hiền giả, thật vậy, Bà-la-môn Pokkharasādi cùng với các con, vợ, thị giả đều quy y Sa-môn Gotama.
Samaṇaṃ khalu, bho, gotamaṃ brāhmaṇo pokkharasāti saputtadāro pāṇehi saraṇaṃ gato ...pe...

Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama đã đến Opāsāda, nay đang ở tại Opāsāda về phía Bắc Opāsāda, trong rừng chư Thiên, rừng cây sala.
Samaṇo khalu, bho, gotamo opāsādaṃ anuppatto opāsāde viharati uttarena opāsādaṃ devavane sālavane.

Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đến ruộng làng chúng ta đều là khách của chúng ta.
Ye kho te samaṇā vā brāhmaṇā vā amhākaṃ gāmakkhettaṃ āgacchanti, atithī no te honti.

Ðối với khách, chúng ta phải kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng.
Atithī kho panamhehi sakkātabbā garukātabbā mānetabbā pūjetabbā.

Này các Hiền giả, nay Sa-môn Gotama đã đến Opāsāda, hiện ở tại Opāsāda, về phía Bắc Opāsāda, trong rừng chư Thiên, rừng cây sala. Như vậy Sa-môn Gotama là khách của chúng ta.
Yampi samaṇo gotamo opāsādaṃ anuppatto opāsāde viharati uttarena opāsādaṃ devavane sālavane, atithimhākaṃ samaṇo gotamo.

Và đã là khách, chúng ta phải kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng.
Atithi kho panamhehi sakkātabbo garukātabbo mānetabbo pūjetabbo.

Do điểm này, thật không xứng đáng cho Tôn giả Gotama đến yết kiến chúng ta,
Imināpaṅgena na arahati so bhavaṃ gotamo amhākaṃ dassanāya upasaṅkamituṃ;

trái lại, thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Tôn giả Gotama.
atha kho mayameva arahāma taṃ bhavantaṃ gotamaṃ dassanāya upasaṅkamituṃ.

Này các Hiền giả, đó là những ưu điểm mà ta được biết về Tôn giả Gotama. Tôn giả Gotama không phải có chừng ấy ưu điểm mà thôi. Tôn giả Gotama có đến vô lượng ưu điểm.
Ettake kho ahaṃ, bho, tassa bhoto gotamassa vaṇṇe pariyāpuṇāmi, no ca kho so bhavaṃ gotamo ettakavaṇṇo; aparimāṇavaṇṇo hi so bhavaṃ gotamo.

Này các Hiền giả, chỉ với một ưu điểm thôi, thật không xứng đáng cho Tôn giả Gotama đến yết kiến chúng ta;
Ekamekenapi tena aṅgena samannāgato na arahati, so bhavaṃ gotamo amhākaṃ dassanāya upasaṅkamituṃ;

thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Tôn giả Gotama.
atha kho mayameva arahāma taṃ bhavantaṃ gotamaṃ dassanāya upasaṅkamitunti.

Vậy tất cả chúng ta hãy đi đến yết kiến Tôn giả Gotama.”
Tena hi, bho, sabbeva mayaṃ samaṇaṃ gotamaṃ dassanāya upasaṅkamissāmā”ti.

Rồi Bà-la-môn Caṅkī, cùng với đại chúng Bà-la-môn đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm.
Atha kho caṅkī brāhmaṇo mahatā brāhmaṇagaṇena saddhiṃ yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi.

sau khi nói lên những người chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên.
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.

Lúc bấy giờ Thế Tôn đang ngồi và nói lên với những Bà-la-môn trưởng thượng những lời thân hữu về vấn đề này, vấn đề khác.
Tena kho pana samayena bhagavā vuddhehi vuddhehi brāhmaṇehi saddhiṃ kiñci kiñci kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā nisinno hoti.

Khi ấy có thanh niên Bà-la-môn tên Kāpaṭika, trẻ tuổi, đầu cạo trọc, mới có mười sáu tuổi, từ khi sanh, thông hiểu ba tập Veda với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biệt tài về Thuận thế luận và Ðại nhân tướng, thanh niên này đang ngồi giữa hội chúng ấy.
Tena kho pana samayena kāpaṭiko nāma māṇavo daharo vuttasiro soḷasavassuddesiko jātiyā, tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū sanighaṇḍukeṭubhānaṃ sākkharappabhedānaṃ itihāsapañcamānaṃ, padako, veyyākaraṇo, lokāyatamahāpurisalakkhaṇesu anavayo tassaṃ parisāyaṃ nisinno hoti.

Thanh niên này thỉnh thoảng cắt đứt cuộc đàm luận giữa Thế Tôn và các vị Bà-la-môn trưởng thượng.
So vuddhānaṃ vuddhānaṃ brāhmaṇānaṃ bhagavatā saddhiṃ mantayamānānaṃ antarantarā kathaṃ opāteti.

Rồi Thế Tôn khiển trách thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭika:
Atha kho bhagavā kāpaṭikaṃ māṇavaṃ apasādeti:

“Hiền giả Bhāradvāja, chớ có cắt ngang cuộc đàm luận của các Bà-la-môn trưởng thượng.
“māyasmā bhāradvājo vuddhānaṃ vuddhānaṃ brāhmaṇānaṃ mantayamānānaṃ antarantarā kathaṃ opātetu.

Hiền giả Bhāradvāja hãy chờ cho đến khi câu chuyện chấm dứt.”
Kathāpariyosānaṃ āyasmā bhāradvājo āgametū”ti.

Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Caṅkī bạch Thế Tôn:
Evaṃ vutte, caṅkī brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca:

“Tôn giả Gotama, chớ có khiển trách thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭika.
“mā bhavaṃ gotamo kāpaṭikaṃ māṇavaṃ apasādesi.

Thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭika là Thiện nam tử. Thanh niên Bà-la-môn Kapathipa là bậc đa văn. Thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭika phát ngôn thiện xảo. Và thanh niên Bà-la-môn Kapathia là bậc có trí. Và thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭika có thể đàm luận với Tôn giả Gotama trong vấn đề này.”
kulaputto ca kāpaṭiko māṇavo, bahussuto ca kāpaṭiko māṇavo, paṇḍito ca kāpaṭiko māṇavo, kalyāṇavākkaraṇo ca kāpaṭiko māṇavo, pahoti ca kāpaṭiko māṇavo bhotā gotamena saddhiṃ asmiṃ vacane paṭimantetun”ti.

Thế Tôn nghĩ như sau:
Atha kho bhagavato etadahosi:

“Thật sự thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭika này đã thông hiểu ba tập Veda,
“addhā kho kāpaṭikassa māṇavassa tevijjake pāvacane kathā bhavissati.

và các Bà-la-môn tôn trọng người này”.
Tathā hi naṃ brāhmaṇā sampurekkharontī”ti.

Và thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭika nghĩ như sau:
Atha kho kāpaṭikassa māṇavassa etadahosi:

“Khi nào Sa-môn Gotama lấy mắt nhìn con mắt ta, ta sẽ hỏi Sa-môn Gotama”.
“yadā me samaṇo gotamo cakkhuṃ upasaṃharissati, athāhaṃ samaṇaṃ gotamaṃ pañhaṃ pucchissāmī”ti.

Rồi Thế Tôn với tâm tư của mình biết được tâm tư của thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭika liền lấy mắt nhìn thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭika.
Atha kho bhagavā kāpaṭikassa māṇavassa cetasā cetoparivitakkamaññāya yena kāpaṭiko māṇavo tena cakkhūni upasaṃhāsi.

Thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭika suy nghĩ:
Atha kho kāpaṭikassa māṇavassa etadahosi:

“Sa-môn Gotama chăm chú nhìn ta,
“samannāharati kho maṃ samaṇo gotamo.

vậy ta hãy hỏi Sa-môn Gotama một câu hỏi”.
Yannūnāhaṃ samaṇaṃ gotamaṃ pañhaṃ puccheyyan”ti.

Rồi thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭika bạch Thế Tôn:
Atha kho kāpaṭiko māṇavo bhagavantaṃ etadavoca:

“Thưa Tôn giả Gotama, câu chú thuật (mantapadam) của các cổ Bà-la-môn y cứ tiếng đồn, truyền thống và Thánh tạng. Và ở đây, các vị Bà-la-môn chắc chắn đi đến kết luận:
“yadidaṃ, bho gotama, brāhmaṇānaṃ porāṇaṃ mantapadaṃ itihitihaparamparāya piṭakasampadāya, tattha ca brāhmaṇā ekaṃsena niṭṭhaṃ gacchanti:

‘Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm’.
‘idameva saccaṃ, moghamaññan’ti.

Ở đây, Tôn giả Gotama đã nói gì?”
Idha bhavaṃ gotamo kimāhā”ti?

“Nhưng này Bhāradvāja, có một Bà-la-môn nào giữa các vị Bà-la-môn đã nói như sau:
“Kiṃ pana, bhāradvāja, atthi koci brāhmaṇānaṃ ekabrāhmaṇopi yo evamāha:

‘Tôi biết việc này, tôi thấy việc này.
‘ahametaṃ jānāmi, ahametaṃ passāmi.

Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm’?”
Idameva saccaṃ, moghamaññan’”ti?

“Thưa không, Tôn giả Gotama.”
“No hidaṃ, bho gotama”.

“Nhưng này Bhāradvāja, có một vị Tôn sư nào của các vị Bà-la-môn, cho đến vị Tôn sư của các vị Tôn sư trở lui cho đến bảy đời, các vị Ðại Tôn sư đã nói như sau:
“Kiṃ pana, bhāradvāja, atthi koci brāhmaṇānaṃ ekācariyopi, ekācariyapācariyopi, yāva sattamā ācariyamahayugāpi, yo evamāha:

‘Chỉ đây là sự thật,
‘ahametaṃ jānāmi, ahametaṃ passāmi.

ngoài ra đều là sai lầm’?”
Idameva saccaṃ, moghamaññan’”ti?

“Thưa không, Tôn giả Gotama.”
“No hidaṃ, bho gotama”.

“Nhưng này Bhāradvāja, thuở xưa những vị ẩn sĩ giữa các Bà-la-môn, những tác giả các chú thuật, những nhà tụng tán các chú thuật, đã hát, đã nói lên, đã sưu tầm những Thánh cú mà nay những Bà-la-môn hiện tại cũng hát lên, nói lên, đọc lên giống như các vị trước đã làm. Như là Aṭṭhaka, Vāmaka, Vāmadeva, Vessāmitta, Yamatagggi, Aṅgīrasa, Bhāradvāja, Vāseṭṭha, Kassapa, Bhagu,
“Kiṃ pana, bhāradvāja, yepi te brāhmaṇānaṃ pubbakā isayo mantānaṃ kattāro mantānaṃ pavattāro yesamidaṃ etarahi brāhmaṇā porāṇaṃ mantapadaṃ gītaṃ pavuttaṃ samihitaṃ tadanugāyanti tadanubhāsanti bhāsitamanubhāsanti vācitamanuvācenti seyyathidaṃ—aṭṭhako vāmako vāmadevo vessāmitto yamataggi aṅgīraso bhāradvājo vāseṭṭho kassapo bhagu,

những vị ấy đã nói như sau:
tepi evamāhaṃsu:

‘Chỉ đây là sự thật.
‘mayametaṃ jānāma, mayametaṃ passāma.

ngoài ra đều là sai lầm’?”
Idameva saccaṃ, moghamaññan’”ti?

“Thưa không, Tôn giả Gotama.”
“No hidaṃ, bho gotama”.

“Như vậy này Bhāradvāja, không có một Bà-la-môn nào nói như vậy với một Bà-la-môn:
“Iti kira, bhāradvāja, natthi koci brāhmaṇānaṃ ekabrāhmaṇopi yo evamāha:

“Tôi biết việc này, tôi thấy việc này.
‘ahametaṃ jānāmi, ahametaṃ passāmi.

Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm”.
Idameva saccaṃ, moghamaññan’ti;

Không có một vị Tôn sư nào của các vị Bà-la-môn, một vị Ðại Tôn sư, cho đến bảy đời, vị Ðại Tôn sư đã nói như sau:
natthi koci brāhmaṇānaṃ ekācariyopi ekācariyapācariyopi, yāva sattamā ācariyamahayugāpi, yo evamāha:

‘Tôi biết việc này, tôi thấy việc này.
‘ahametaṃ jānāmi, ahametaṃ passāmi.

Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm”.
Idameva saccaṃ, moghamaññan’ti;

Thuở xưa những vị ẩn sĩ, giữa các Bà-la-môn, những tác giả các chú thuật, những nhà tụng tán các chú thuật, đã hát, đã nói lên, đã sưu tầm những Thánh cú và nay, những Bà-la-môn hiện tại cũng đã hát lên, nói lên giống như các vị trước đã làm. Như là Attaka, Vāmaka, Vāmadeva, Vessāmitta, Yamataggi, Aṅgīrasa, Bhāradvāja, Vāseṭṭha, Kassapa, Bhagu, những vị ấy không có nói như sau:
yepi te brāhmaṇānaṃ pubbakā isayo mantānaṃ kattāro mantānaṃ pavattāro yesamidaṃ etarahi brāhmaṇā porāṇaṃ mantapadaṃ gītaṃ pavuttaṃ samihitaṃ tadanugāyanti tadanubhāsanti bhāsitamanubhāsanti vācitamanuvācenti seyyathidaṃ—aṭṭhako vāmako vāmadevo vessāmitto yamataggi aṅgīraso bhāradvājo vāseṭṭho kassapo bhagu, tepi na evamāhaṃsu:

‘Chúng tôi biết việc này, chúng tôi thấy việc này.
‘mayametaṃ jānāma, mayametaṃ passāma.

Chỉ có đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm”.
Idameva saccaṃ, moghamaññan’ti.

Ví như này, Bhāradvāja, một chuỗi người mù ôm lưng nhau, người trước không thấy, người giữa cũng không thấy, người cuối cùng cũng không thấy;
Seyyathāpi, bhāradvāja, andhaveṇi paramparāsaṃsattā purimopi na passati majjhimopi na passati pacchimopi na passati;

cũng vậy, này Bhāradvāja, Ta nghĩ rằng, lời nói của các Bà-la-môn cũng giống như chuỗi người mù: người trước không thấy, người giữa cũng không thấy, người cuối cùng cũng không thấy.
evameva kho, bhāradvāja, andhaveṇūpamaṃ maññe brāhmaṇānaṃ bhāsitaṃ sampajjati—purimopi na passati majjhimopi na passati pacchimopi na passati.

Này Bhāradvāja, Ông nghĩ thế nào?
Taṃ kiṃ maññasi, bhāradvāja,

Sự kiện là như vậy, có phải lòng tin của các vị Bà-la-môn trở thành không có căn cứ?”
nanu evaṃ sante brāhmaṇānaṃ amūlikā saddhā sampajjatī”ti?

“Thưa Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn không phải chỉ dựa trên lòng tin, các Bà-la-môn ở đây còn dựa trên điều nghe.”
“Na khvettha, bho gotama, brāhmaṇā saddhāyeva payirupāsanti, anussavāpettha brāhmaṇā payirupāsantī”ti.

“Trước hết, này Bhāradvāja, Ông đi đến lòng tin, nay Ông nói đến tùy văn.
“Pubbeva kho tvaṃ, bhāradvāja, saddhaṃ agamāsi, anussavaṃ idāni vadesi.

Này Bhāradvāja, năm pháp này có hai quả báo ngay trong hiện tại.
Pañca kho ime, bhāradvāja, dhammā diṭṭheva dhamme dvedhā vipākā.

Thế nào là năm?
Katame pañca?

Tín, tùy hỷ, tùy văn, cân nhắc suy tư các lý do và chấp nhận quan điểm.
Saddhā, ruci, anussavo, ākāraparivitakko, diṭṭhinijjhānakkhanti—

Này Bhāradvāja, năm pháp này có hai quả báo ngay trong hiện tại.
ime kho, bhāradvāja, pañca dhammā diṭṭheva dhamme dvedhā vipākā.

Tuy vậy, này Bhāradvāja, có điều được khéo tin tưởng, có thể là trống không, trống rỗng, hư vọng.
Api ca, bhāradvāja, susaddahitaṃyeva hoti, tañca hoti rittaṃ tucchaṃ musā;

Trái lại, có điều không được khéo tin tưởng, có thể là thật, chân, không thay đổi.
no cepi susaddahitaṃ hoti, tañca hoti bhūtaṃ tacchaṃ anaññathā.

Lại nữa này Bhāradvāja, có điều được khéo tùy hỷ…
Api ca, bhāradvāja, surucitaṃyeva hoti ...pe...

được khéo tùy văn…
svānussutaṃyeva hoti ...pe...

được khéo cân nhắc suy tư…
suparivitakkitaṃyeva hoti ...pe...

được khéo chấp nhận, có thể là trống không, trống rỗng, hư vọng.
sunijjhāyitaṃyeva hoti, tañca hoti rittaṃ tucchaṃ musā;

Trái lại, có điều không được khéo chấp nhận, có thể là thật, chân, không thay đổi.
no cepi sunijjhāyitaṃ hoti, tañca hoti bhūtaṃ tacchaṃ anaññathā.

Hộ trì chân lý, này Bhāradvāja không đủ để một người có trí đi đến kết luận một chiều là:
Saccamanurakkhatā, bhāradvāja, viññunā purisena nālamettha ekaṃsena niṭṭhaṃ gantuṃ:

‘Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm’.”
‘idameva saccaṃ, moghamaññan’”ti.

“Nhưng thưa Tôn giả Gotama, cho đến mức độ nào là hộ trì chân lý? Cho đến mức độ nào, chân lý được hộ trì? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama về hộ trì chân lý.”
“Kittāvatā pana, bho gotama, saccānurakkhaṇā hoti, kittāvatā saccamanurakkhati?
Saccānurakkhaṇaṃ mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ pucchāmā”ti.

“Này Bhāradvāja, nếu có người có lòng tin và nói:
“Saddhā cepi, bhāradvāja, purisassa hoti;

‘Ðây là lòng tin của tôi”, người ấy hộ trì chân lý,
‘evaṃ me saddhā’ti—

nhưng người ấy không đi đến kết luận một chiều:
iti vadaṃ saccamanurakkhati, na tveva tāva ekaṃsena niṭṭhaṃ gacchati:

‘Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm”. Cho đến như vậy, này Bhāradvāja, là sự hộ trì chân lý. Cho đến như vậy, chân lý được hộ trì. Và cho đến như vậy, chúng tôi chủ trương hộ trì chân lý. Nhưng ở đây, chưa phải là giác ngộ chân lý. Này Bhāradvāja, nếu có người có lòng tùy hỷ, này Bhāradvāja, nếu có người có lòng tùy văn; này Bhāradvāja, nếu có người có sự cân nhắc suy tư các lý do; này Bhāradvāja, nếu có người chấp nhận một quan điểm và nói: “Ðây là sự chấp nhận quan điểm của tôi”, người ấy hộ trì chân lý.
‘idameva saccaṃ, moghamaññan’ti (…). Ruci cepi, bhāradvāja, purisassa hoti ...pe... anussavo cepi, bhāradvāja, purisassa hoti ...pe... ākāraparivitakko cepi, bhāradvāja, purisassa hoti ...pe... diṭṭhinijjhānakkhanti cepi, bhāradvāja, purisassa hoti; ‘evaṃ me diṭṭhinijjhānakkhantī’ti—

Nhưng người ấy không đi đến kết luận một chiều: “Chỉ đây là sự thật, ngoài ra là sai lầm”.
iti vadaṃ saccamanurakkhati, na tveva tāva ekaṃsena niṭṭhaṃ gacchati: ‘idameva saccaṃ, moghamaññan’ti.

Cho đến như vậy, này Bhāradvāja, là hộ trì chân lý. Cho đến như vậy, này Bhāradvāja, chúng tôi chủ trương hộ trì và cho đến như vậy, này Bhāradvāja, chúng tôi chủ trương hộ trì chân lý.
Ettāvatā kho, bhāradvāja, saccānurakkhaṇā hoti, ettāvatā saccamanurakkhati, ettāvatā ca mayaṃ saccānurakkhaṇaṃ paññapema;

Nhưng ở đây chưa phải sự giác ngộ chân lý.”
na tveva tāva saccānubodho hotī”ti.

“Cho đến như vậy, thưa Tôn giả Gotama, là hộ trì chân lý. Cho đến như vậy, thưa Tôn giả Gotama, chân lý được hộ trì. Cho đến như vậy, thưa Tôn giả Gotama, chúng con nhìn thấy hộ trì chân lý. Nhưng thưa Tôn giả Gotama, cho đến mức độ nào là giác ngộ chân lý? Cho đến mức độ nào chân lý được giác ngộ? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama về giác ngộ chân lý.”
“Ettāvatā, bho gotama, saccānurakkhaṇā hoti, ettāvatā saccamanurakkhati, ettāvatā ca mayaṃ saccānurakkhaṇaṃ pekkhāma. Kittāvatā pana, bho gotama, saccānubodho hoti, kittāvatā saccamanubujjhati? Saccānubodhaṃ mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ pucchāmā”ti.

“Ở đây, này Bhāradvāja, Tỷ-kheo sống gần một làng hay một thị trấn.
“Idha, bhāradvāja, bhikkhu aññataraṃ gāmaṃ vā nigamaṃ vā upanissāya viharati.

Một gia chủ hay con trai một gia chủ đi đến vị ấy và tìm hiểu vị ấy trong ba pháp, tức là
Tamenaṃ gahapati vā gahapatiputto vā upasaṅkamitvā tīsu dhammesu samannesati—

tham pháp, sân pháp, si pháp.
lobhanīyesu dhammesu, dosanīyesu dhammesu, mohanīyesu dhammesu.

Người này nghĩ rằng: “Không hiểu vị Tôn giả ấy có tham ái hay không, do những tham ái này, tâm vị ấy bị chi phối đến nỗi dầu không biết vẫn nói: “Tôi biết”, dầu không thấy vẫn nói: “Tôi thấy,”
Atthi nu kho imassāyasmato tathārūpā lobhanīyā dhammā yathārūpehi lobhanīyehi dhammehi pariyādinnacitto ajānaṃ vā vadeyya—jānāmīti, apassaṃ vā vadeyya—

hay xui khiến người khác có những hành động khiến người ấy không được hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài.
passāmīti, paraṃ vā tadatthāya samādapeyya yaṃ paresaṃ assa dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyāti?

Trong khi xem xét vị ấy, người này biết như sau:
Tamenaṃ samannesamāno evaṃ jānāti:

‘Vị Tôn giả ấy không có những tham pháp, do những tham pháp này tâm vị ấy bị chi phối đến nỗi dầu không biết vẫn nói: “Tôi biết”, dầu không thấy vẫn nói: “Tôi thấy”; hay xui khiến người khác có những hành động khiến người ấy không được hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài.
‘natthi kho imassāyasmato tathārūpā lobhanīyā dhammā yathārūpehi lobhanīyehi dhammehi pariyādinnacitto ajānaṃ vā vadeyya—jānāmīti, apassaṃ vā vadeyya—passāmīti, paraṃ vā tadatthāya samādapeyya yaṃ paresaṃ assa dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya.

Thân hành của vị ấy là như vậy, khẩu hành là như vậy, là hành động của một người không có lòng tham.
Tathārūpo kho panimassāyasmato kāyasamācāro tathārūpo vacīsamācāro yathā taṃ aluddhassa.

Còn Tôn giả ấy thuyết pháp, pháp ấy thâm sâu, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, thù thắng, vượt ngoài luận lý suông, tế nhị, được người trí chấp nhận;
Yaṃ kho pana ayamāyasmā dhammaṃ deseti, gambhīro so dhammo duddaso duranubodho santo paṇīto atakkāvacaro nipuṇo paṇḍitavedanīyo;

pháp ấy không thể do một người có lòng tham khéo giảng’.
na so dhammo sudesiyo luddhenā’ti.

Sau khi xem xét vị ấy và thấy vị ấy trong sạch không có những tham pháp, người kia lại xem xét thêm vị ấy về các sân pháp:
Yato naṃ samannesamāno visuddhaṃ lobhanīyehi dhammehi samanupassati tato naṃ uttari samannesati dosanīyesu dhammesu.

Không hiểu vị Tôn giả ấy có sân pháp hay không, do những sân pháp này, tâm vị ấy bị chi phối đến nỗi:
Atthi nu kho imassāyasmato tathārūpā dosanīyā dhammā yathārūpehi dosanīyehi dhammehi pariyādinnacitto ajānaṃ vā vadeyya—

dầu không biết vẫn nói: “Tôi biết”, dầu không thấy vẫn nói: “Tôi thấy”,
jānāmīti, apassaṃ vā vadeyya—

hay xui khiến người khác có những hành động khiến người ấy không được hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài?
passāmīti, paraṃ vā tadatthāya samādapeyya yaṃ paresaṃ assa dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyāti?

Trong khi xem xét vị ấy, người này biết như sau:
Tamenaṃ samannesamāno evaṃ jānāti:

‘Tôn giả ấy không có những sân pháp, do những sân pháp này, tâm vị ấy bị chi phối đến nỗi dầu không biết vẫn nói: “Tôi biết”, dầu không thấy vẫn nói: “Tôi thấy”, hay xui khiến người khác có những hành động, khiến người ấy không được hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài.
‘natthi kho imassāyasmato tathārūpā dosanīyā dhammā yathārūpehi dosanīyehi dhammehi pariyādinnacitto ajānaṃ vā vadeyya—jānāmīti, apassaṃ vā vadeyya—passāmīti, paraṃ vā tadatthāya samādapeyya yaṃ paresaṃ assa dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya.

Thân hành của vị ấy là như vậy, khẩu hành là như vậy, là hành động của một người không có lòng sân.
Tathārūpo kho panimassāyasmato kāyasamācāro tathārūpo vacīsamācāro yathā taṃ aduṭṭhassa.

Còn Tôn giả ấy thuyết pháp, pháp ấy thâm sâu, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, thù thắng, vượt ngoài luận lý suông, tế nhị, được người trí chấp nhận;
Yaṃ kho pana ayamāyasmā dhammaṃ deseti, gambhīro so dhammo duddaso duranubodho santo paṇīto atakkāvacaro nipuṇo paṇḍitavedanīyo;

pháp ấy không thể do một người có lòng sân khéo giảng’.
na so dhammo sudesiyo duṭṭhenā’ti.

Sau khi xem xét vị ấy và thấy vị ấy trong sạch, không có những sân pháp, người kia lại xem xét thêm vị ấy về các si pháp:
Yato naṃ samannesamāno visuddhaṃ dosanīyehi dhammehi samanupassati, tato naṃ uttari samannesati mohanīyesu dhammesu.

Không hiểu tôn giả ấy có si pháp hay không, do những si pháp này, tâm của vị ấy bị chi phối đến nỗi:
Atthi nu kho imassāyasmato tathārūpā mohanīyā dhammā yathārūpehi mohanīyehi dhammehi pariyādinnacitto ajānaṃ vā vadeyya—

dầu không biết, vẫn nói: “Tôi biết”, dầu không thấy vẫn nói: “Tôi thấy”,
jānāmīti, apassaṃ vā vadeyya—

hay xui khiến người khác có hành động khiến người ấy không được hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài”.
passāmīti, paraṃ vā tadatthāya samādapeyya yaṃ paresaṃ assa dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyāti?

Trong khi xem xét vị ấy, người này biết như sau:
Tamenaṃ samannesamāno evaṃ jānāti:

‘Tôn giả ấy không có những si pháp, do những si pháp này, tâm vị ấy bị chi phối đến nỗi dầu không biết, vẫn nói: “Tôi biết”, dầu không thấy, vẫn nói: “Tôi thấy”, hay xui khiến người khác có những hành động khiến người ấy không được hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài.
‘natthi kho imassāyasmato tathārūpā mohanīyā dhammā yathārūpehi mohanīyehi dhammehi pariyādinnacitto ajānaṃ vā vadeyya—jānāmīti, apassaṃ vā vadeyya—passāmīti, paraṃ vā tadatthāya samādapeyya yaṃ paresaṃ assa dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya.

Thân hành của vị ấy là như vậy, khẩu hành là như vậy, là hành động của một người không có lòng si.
Tathārūpo kho panimassāyasmato kāyasamācāro tathārūpo vacīsamācāro yathā taṃ amūḷhassa.

Còn Tôn giả ấy thuyết pháp, pháp ấy thâm sâu, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, thù thắng, vượt ngoài luận lý suông, tế nhị, được người trí chấp nhận,
Yaṃ kho pana ayamāyasmā dhammaṃ deseti, gambhīro so dhammo duddaso duranubodho santo paṇīto atakkāvacaro nipuṇo paṇḍitavedanīyo;

pháp ấy không thể do một người có lòng si khéo giảng’.
na so dhammo sudesiyo mūḷhenā’ti.

Sau khi xem xét vị ấy và thấy vị ấy trong sạch, không có những si pháp;
Yato naṃ samannesamāno visuddhaṃ mohanīyehi dhammehi samanupassati;

người này sanh lòng tin đối với vị ấy, với lòng tin sanh, người này đến gần, khi đến gần liền thân cận giao thiệp, do thân cận giao thiệp, nên lóng tai, lóng tai, người ấy nghe pháp, sau khi nghe, liền thọ trì pháp, rồi tìm hiểu ý nghĩa các pháp được thọ trì; trong khi tìm hiểu ý nghĩa, các pháp được hoan hỷ chấp nhận; khi các pháp được hoan hỷ chấp nhận, ước muốn sanh, khi ước muốn sanh, liền cố gắng, sau khi cố gắng liền cân nhắc, sau khi cân nhắc, người ấy tinh cần. Trong khi tinh cần, người ấy tự thân chứng ngộ tối thượng chân lý, và khi thể nhập chân lý ấy với trí tuệ, người ấy thấy.
atha tamhi saddhaṃ niveseti, saddhājāto upasaṅkamati, upasaṅkamanto payirupāsati, payirupāsanto sotaṃ odahati, ohitasoto dhammaṃ suṇāti, sutvā dhammaṃ dhāreti, dhatānaṃ dhammānaṃ atthaṃ upaparikkhati, atthaṃ upaparikkhato dhammā nijjhānaṃ khamanti, dhammanijjhānakkhantiyā sati chando jāyati, chandajāto ussahati, ussahitvā tuleti, tulayitvā padahati, pahitatto samāno kāyena ceva paramasaccaṃ sacchikaroti paññāya ca naṃ ativijjha passati.

Cho đến mức độ này, này Bhāradvāja là sự giác ngộ chân lý, cho đến mức độ này, chân lý được giác ngộ, và cho đến mức độ này, chúng tôi chủ trương sự giác ngộ chân lý.
Ettāvatā kho, bhāradvāja, saccānubodho hoti, ettāvatā saccamanubujjhati, ettāvatā ca mayaṃ saccānubodhaṃ paññapema;

Nhưng như vậy chưa phải là chứng đạt chân lý.”
na tveva tāva saccānuppatti hotī”ti.

“Cho đến như vậy, thưa Tôn giả Gotama, là giác ngộ chân lý, cho đến như vậy, chân lý được giác ngộ, và cho đến như vậy chúng con thấy giác ngộ chân lý.
“Ettāvatā, bho gotama, saccānubodho hoti, ettāvatā saccamanubujjhati, ettāvatā ca mayaṃ saccānubodhaṃ pekkhāma.

Nhưng thưa Tôn giả Gotama, cho đến mức độ nào là chứng đạt được chân lý, cho đến mức độ nào chân lý được chứng đạt? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama về sự chứng đạt chân lý.”
Kittāvatā pana, bho gotama, saccānuppatti hoti, kittāvatā saccamanupāpuṇāti? Saccānuppattiṃ mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ pucchāmā”ti.

“Này Bhāradvāja, chính nhờ luyện tập, tu tập và hành tập nhiều lần, chân lý mới được chứng đạt.
“Tesaṃyeva, bhāradvāja, dhammānaṃ āsevanā bhāvanā bahulīkammaṃ saccānuppatti hoti.

Cho đến như vậy, này Bhāradvāja, là chứng đạt chân lý, cho đến như vậy, chân lý được chứng đạt, cho đến như vậy, chúng tôi chủ trương sự chứng đạt chân lý.”
Ettāvatā kho, bhāradvāja, saccānuppatti hoti, ettāvatā saccamanupāpuṇāti, ettāvatā ca mayaṃ saccānuppattiṃ paññapemā”ti.

“Cho đến như vậy, thưa Tôn giả Gotama, là chứng đạt chân lý, cho đến như vậy chân lý được chứng đạt, và cho đến như vậy, chúng con thấy chứng đạt chân lý.
“Ettāvatā, bho gotama, saccānuppatti hoti, ettāvatā saccamanupāpuṇāti, ettāvatā ca mayaṃ saccānuppattiṃ pekkhāma.

Nhưng trong sự chứng đạt chân lý, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự chứng đạt chân lý, pháp nào được hành trì nhiều.”
Saccānuppattiyā pana, bho gotama, katamo dhammo bahukāro? Saccānuppattiyā bahukāraṃ dhammaṃ mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ pucchāmā”ti.

“Trong sự chứng đạt chân lý, này Bhāradvāja, tinh cần được hành trì nhiều.
“Saccānuppattiyā kho, bhāradvāja, padhānaṃ bahukāraṃ.

Nếu không tinh cần theo đuổi chân lý thì không thể chứng đạt chân lý.
No cetaṃ padaheyya, nayidaṃ saccamanupāpuṇeyya.

Nhưng nếu tinh cần thì chứng đạt được chân lý.
Yasmā ca kho padahati tasmā saccamanupāpuṇāti.

Do vậy, trong sự chứng đạt chân lý, tinh cần được hành trì nhiều.”
Tasmā saccānuppattiyā padhānaṃ bahukāran”ti.

“Trong sự tinh cần, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều?
“Padhānassa pana, bho gotama, katamo dhammo bahukāro?

Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự tinh cần, pháp nào được hành trì nhiều.”
Padhānassa bahukāraṃ dhammaṃ mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ pucchāmā”ti.

“Trong sự tinh cần, này Bhāradvāja, sự cân nhắc được hành trì nhiều.
“Padhānassa kho, bhāradvāja, tulanā bahukārā.

Nếu không cân nhắc thì không thể tinh cần theo đuổi chân lý.
No cetaṃ tuleyya, nayidaṃ padaheyya.

Nếu có cân nhắc sẽ được tinh cần;
Yasmā ca kho tuleti tasmā padahati.

do vậy, trong sự tinh cần, cân nhắc được hành trì nhiều.”
Tasmā padhānassa tulanā bahukārā”ti.

“Trong sự cân nhắc, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự cân nhắc, pháp nào được hành trì nhiều.”
“Tulanāya pana, bho gotama, katamo dhammo bahukāro? Tulanāya bahukāraṃ dhammaṃ mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ pucchāmā”ti.

Trong sự cân nhắc, này Bhāradvāja, cố gắng được hành trì nhiều.
“Tulanāya kho, bhāradvāja, ussāho bahukāro.

Nếu không cố gắng thì không thể cân nhắc.
No cetaṃ ussaheyya, nayidaṃ tuleyya.

Nhưng nếu có cố gắng thì có cân nhắc;
Yasmā ca kho ussahati tasmā tuleti.

do vậy trong sự cân nhắc, thì cố gắng được hành trì nhiều.”
Tasmā tulanāya ussāho bahukāro”ti.

“Trong sự cố gắng, Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự cố gắng, pháp nào được hành trì nhiều.”
“Ussāhassa pana, bho gotama, katamo dhammo bahukāro? Ussāhassa bahukāraṃ dhammaṃ mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ pucchāmā”ti.

“Trong sự cố gắng, này Bhāradvāja, ước muốn được hành trì nhiều.
“Ussāhassa kho, bhāradvāja, chando bahukāro.

Nếu ước muốn đối với chân lý ấy không khởi lên thì không có cố gắng.
No cetaṃ chando jāyetha, nayidaṃ ussaheyya.

Vì ước muốn có khởi lên nên có cố gắng,
Yasmā ca kho chando jāyati tasmā ussahati.

do vậy, trong sự cố gắng, ước muốn được hành trì nhiều.”
Tasmā ussāhassa chando bahukāro”ti.

“Trong ước muốn, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con muốn hỏi Tôn giả Gotama, trong ước muốn, pháp nào được hành trì nhiều.”
“Chandassa pana, bho gotama, katamo dhammo bahukāro? Chandassa bahukāraṃ dhammaṃ mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ pucchāmā”ti.

“Trong ước muốn, này Bhāradvāja, hoan hỷ chấp nhận pháp được hành trì nhiều.
“Chandassa kho, bhāradvāja, dhammanijjhānakkhanti bahukārā.

Nếu không hoan hỷ chấp nhận pháp thì ước muốn không khởi lên.
No cete dhammā nijjhānaṃ khameyyuṃ, nayidaṃ chando jāyetha.

Vì có hoan hỷ chấp nhận pháp nên ước muốn khởi lên;
Yasmā ca kho dhammā nijjhānaṃ khamanti tasmā chando jāyati.

do vậy, trong ước muốn, hoan hỷ chấp nhận pháp được hành trì nhiều.”
Tasmā chandassa dhammanijjhānakkhanti bahukārā”ti.

“Nhưng trong sự hoan hỷ chấp nhận pháp, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự hoan hỷ chấp nhận pháp, pháp nào được hành trì nhiều.”
“Dhammanijjhānakkhantiyā pana, bho gotama, katamo dhammo bahukāro? Dhammanijjhānakkhantiyā bahukāraṃ dhammaṃ mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ pucchāmā”ti.

“Trong sự hoan hỷ chấp nhận pháp, này Bhāradvāja, tìm hiểu ý nghĩa được hành trì nhiều.
“Dhammanijjhānakkhantiyā kho, bhāradvāja, atthūpaparikkhā bahukārā.

Nếu không tìm hiểu ý nghĩa thì không hoan hỷ chấp nhận pháp.
No cetaṃ atthaṃ upaparikkheyya, nayidaṃ dhammā nijjhānaṃ khameyyuṃ.

Và vì có tìm hiểu ý nghĩa nên có sự chấp nhận pháp;
Yasmā ca kho atthaṃ upaparikkhati tasmā dhammā nijjhānaṃ khamanti.

do vậy, trong sự hoan hỷ chấp nhận pháp, tìm hiểu ý nghĩa được hành trì nhiều.”
Tasmā dhammanijjhānakkhantiyā atthūpaparikkhā bahukārā”ti.

“Nhưng trong sự tìm hiểu ý nghĩa, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự tìm hiểu ý nghĩa, pháp nào được hành trì nhiều.”
“Atthūpaparikkhāya pana, bho gotama, katamo dhammo bahukāro? Atthūpaparikkhāya bahukāraṃ dhammaṃ mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ pucchāmā”ti.

“Trong sự tìm hiểu ý nghĩa, này Bhāradvāja, thọ trì pháp được hành trì nhiều.
“Atthūpaparikkhāya kho, bhāradvāja, dhammadhāraṇā bahukārā.

Nếu không có thọ trì pháp thì không tìm hiểu ý nghĩa.
No cetaṃ dhammaṃ dhāreyya, nayidaṃ atthaṃ upaparikkheyya.

Và vì có thọ trì pháp, nên có tìm hiểu ý nghĩa;
Yasmā ca kho dhammaṃ dhāreti tasmā atthaṃ upaparikkhati.

do vậy, trong sự tìm hiểu ý nghĩa, thọ trì pháp được hành trì nhiều.”
Tasmā atthūpaparikkhāya dhammadhāraṇā bahukārā”ti.

“Trong sự thọ trì pháp, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Trong sự thọ trì pháp, chúng con hỏi Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều.”
“Dhammadhāraṇāya pana, bho gotama, katamo dhammo bahukāro? Dhammadhāraṇāya bahukāraṃ dhammaṃ mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ pucchāmā”ti.

“Trong sự thọ trì pháp, này Bhāradvāja, nghe pháp được hành trì nhiều.
“Dhammadhāraṇāya kho, bhāradvāja, dhammassavanaṃ bahukāraṃ.

Nếu không nghe pháp thì không có thọ trì pháp.
No cetaṃ dhammaṃ suṇeyya, nayidaṃ dhammaṃ dhāreyya.

Và do có nghe pháp nên có thọ trì pháp;
Yasmā ca kho dhammaṃ suṇāti tasmā dhammaṃ dhāreti.

do vậy, trong sự thọ trì pháp, nghe pháp được hành trì nhiều.”
Tasmā dhammadhāraṇāya dhammassavanaṃ bahukāran”ti.

“Trong sự nghe pháp, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự nghe pháp, pháp nào được hành trì nhiều.”
“Dhammassavanassa pana, bho gotama, katamo dhammo bahukāro? Dhammassavanassa bahukāraṃ dhammaṃ mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ pucchāmā”ti.

“Trong sự nghe pháp, này Bhāradvāja, lóng tai được hành trì nhiều.
“Dhammassavanassa kho, bhāradvāja, sotāvadhānaṃ bahukāraṃ.

Nếu không có lóng tai thì không có nghe pháp.
No cetaṃ sotaṃ odaheyya, nayidaṃ dhammaṃ suṇeyya.

Và vì có lóng tai nên có nghe pháp;
Yasmā ca kho sotaṃ odahati tasmā dhammaṃ suṇāti.

do vậy, trong sự nghe pháp, lóng tai được hành trì nhiều.”
Tasmā dhammassavanassa sotāvadhānaṃ bahukāran”ti.

“Trong sự lóng tai, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự lóng tai, pháp nào được hành trì nhiều.”
“Sotāvadhānassa pana, bho gotama, katamo dhammo bahukāro? Sotāvadhānassa bahukāraṃ dhammaṃ mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ pucchāmā”ti.

“Trong sự lóng tai, này Bhāradvāja, thân cận giao thiệp được hành trì nhiều.
“Sotāvadhānassa kho, bhāradvāja, payirupāsanā bahukārā.

Nếu không có thân cận giao thiệp thì không có lóng tai.
No cetaṃ payirupāseyya, nayidaṃ sotaṃ odaheyya.

Vì có thân cận giao thiệp nên có lóng tai;
Yasmā ca kho payirupāsati tasmā sotaṃ odahati.

do vậy, trong sự lóng tai, thân cận giao thiệp được hành trì nhiều.”
Tasmā sotāvadhānassa payirupāsanā bahukārā”ti.

“Trong sự thân cận giao thiệp, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự thân cận giao thiệp, pháp nào được hành trì nhiều.”
“Payirupāsanāya pana, bho gotama, katamo dhammo bahukāro? Payirupāsanāya bahukāraṃ dhammaṃ mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ pucchāmā”ti.

“Trong sự thân cận giao thiệp, này Bhāradvāja, đi đến gần được hành trì nhiều.
“Payirupāsanāya kho, bhāradvāja, upasaṅkamanaṃ bahukāraṃ.

Nếu không đi đến gần thì không có thân cận giao thiệp.
No cetaṃ upasaṅkameyya, nayidaṃ payirupāseyya.

Và vì có đi đến gần nên có thân cận giao thiệp;
Yasmā ca kho upasaṅkamati tasmā payirupāsati.

do vậy, trong sự thân cận giao thiệp, đi đến gần được hành trì nhiều.”
Tasmā payirupāsanāya upasaṅkamanaṃ bahukāran”ti.

“Trong sự đi đến gần, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự đi đến gần, pháp nào được hành trì nhiều.”
“Upasaṅkamanassa pana, bho gotama, katamo dhammo bahukāro? Upasaṅkamanassa bahukāraṃ dhammaṃ mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ pucchāmā”ti.

“Trong sự đi đến gần, này Bhāradvāja, lòng tin được hành trì nhiều.
“Upasaṅkamanassa kho, bhāradvāja, saddhā bahukārā.

Nếu lòng tin không sanh thì không đi đến gần.
No cetaṃ saddhā jāyetha, nayidaṃ upasaṅkameyya.

Và vì lòng tin sanh, nên có đi đến gần;
Yasmā ca kho saddhā jāyati tasmā upasaṅkamati.

do vậy, trong sự đi đến gần, lòng tin được hành trì nhiều.”
Tasmā upasaṅkamanassa saddhā bahukārā”ti.

“Chúng con đã hỏi Tôn giả Gotama về hộ trì chân lý. Tôn giả Gotama đã trả lời về hộ trì chân lý.
“Saccānurakkhaṇaṃ mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ apucchimha, saccānurakkhaṇaṃ bhavaṃ gotamo byākāsi;

Chúng con tùy hỷ và chấp nhận, và do vậy, chúng con hoan hỷ.
tañca panamhākaṃ ruccati ceva khamati ca tena camha attamanā.

Chúng con đã hỏi Tôn giả Gotama về giác ngộ chân lý. Tôn giả Gotama đã trả lời về giác ngộ chân lý.
Saccānubodhaṃ mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ apucchimha, saccānubodhaṃ bhavaṃ gotamo byākāsi;

Chúng con đã tùy hỷ và chấp nhận; do vậy, chúng con hoan hỷ.
tañca panamhākaṃ ruccati ceva khamati ca tena camha attamanā.

Chúng con đã hỏi Tôn giả Gotama về chứng đạt chân lý. Tôn giả Gotama đã trả lời về chứng đạt chân lý.
Saccānuppattiṃ mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ apucchimha, saccānuppattiṃ bhavaṃ gotamo byākāsi;

Chúng con tùy hỷ và chấp nhận; do vậy, chúng con hoan hỷ.
tañca panamhākaṃ ruccati ceva khamati ca tena camha attamanā.

Trong sự chứng đạt chân lý, chúng con hỏi Tôn giả Gotama về pháp nào được hành trì nhiều. Trong sự chứng đạt chân lý, Tôn giả Gotama đã trả lời pháp nào được hành trì nhiều.
Saccānuppattiyā bahukāraṃ dhammaṃ mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ apucchimha, saccānuppattiyā bahukāraṃ dhammaṃ bhavaṃ gotamo byākāsi;

Chúng con tùy hỷ và chấp nhận; do vậy, chúng con hoan hỷ.
tañca panamhākaṃ ruccati ceva khamati ca tena camha attamanā.

Chúng con đã hỏi Tôn giả Gotama về bất cứ điều gì, Tôn giả Gotama đã trả lời các điều ấy.
Yaṃyadeva ca mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ apucchimha taṃtadeva bhavaṃ gotamo byākāsi;

Chúng con tùy hỷ và chấp nhận; do vậy, chúng con hoan hỷ.
tañca panamhākaṃ ruccati ceva khamati ca tena camha attamanā.

Thưa Tôn giả Gotama, xưa kia chúng con biết (sự phân biệt) như sau:
Mayañhi, bho gotama, pubbe evaṃ jānāma:

‘Và ai là những Sa-môn trọc đầu, tiện nô, hắc nô, sanh từ gót chân của Phạm thiên, và ai là những người hiểu biết Chánh Pháp’.
‘ke ca muṇḍakā samaṇakā ibbhā kaṇhā bandhupādāpaccā, ke ca dhammassa aññātāro’ti?

Thật sự Tôn giả Gotama đã làm sống dậy nơi con lòng ái kính Sa-môn đối với các Sa-môn, lòng tin kính Sa-môn đối với các Sa-môn.
Ajanesi vata me bhavaṃ gotamo samaṇesu samaṇapemaṃ, samaṇesu samaṇapasādaṃ, samaṇesu samaṇagāravaṃ.

Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo.
Abhikkantaṃ, bho gotama ...pe...

Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng.”
upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatan”ti.

Caṅkīsuttaṃ niṭṭhitaṃ pañcamaṃ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt