Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 11.10

Tương Ưng Bộ 11.10
Saṃyutta Nikāya 11.10

Phẩm Thứ Nhất
1. Paṭhamavagga

Ẩn Sĩ Ở Bờ Biển (hay Sambara)
Samuddakasutta

Ở Sāvatthī.
Sāvatthiyaṃ.

“Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có nhiều vị ẩn sĩ trì giới, tánh hiền thiện, sống cùng nhau ở trong những chòi lá, trên bờ biển.
“Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sambahulā isayo sīlavanto kalyāṇadhammā samuddatīre paṇṇakuṭīsu sammanti.

Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, một trận chiến xảy ra giữa chư Thiên và các A-tu-la rất ác liệt.
Tena kho pana samayena devāsurasaṅgāmo samupabyūḷho ahosi.

Này các Tỷ-kheo, các vị ẩn sĩ trì giới, tánh hiền thiện ấy suy nghĩ như sau:
Atha kho, bhikkhave, tesaṃ isīnaṃ sīlavantānaṃ kalyāṇadhammānaṃ etadahosi:

‘Chư Thiên sống như pháp, các A-tu-la sống phi pháp.
‘dhammikā kho devā, adhammikā asurā.

Chúng ta có thể nguy hiểm từ phía A-tu-la.
Siyāpi no asurato bhayaṃ.

Vậy chúng ta hãy đi đến A-tu-la vương Sambara và xin được bảo đảm vô úy.’
Yannūna mayaṃ sambaraṃ asurindaṃ upasaṅkamitvā abhayadakkhiṇaṃ yāceyyāmā’ti.

Này các Tỷ-kheo, các vị ẩn sĩ trì giới, tánh hiền thiện ấy, như nhà lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, biến mất trong các chòi lá trên bờ biển và hiện ra trước mặt A- tu-la vương Sambara.
Atha kho, bhikkhave, te isayo sīlavanto kalyāṇadhammā—seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya; evameva—samuddatīre paṇṇakuṭīsu antarahitā sambarassa asurindassa sammukhe pāturahesuṃ.

Này các Tỷ-kheo, các vị ẩn sĩ trì giới, tánh hiền thiện ấy nói lên bài kệ với A-tu-la vương Sambara:
Atha kho, bhikkhave, te isayo sīlavanto kalyāṇadhammā sambaraṃ asurindaṃ gāthāya ajjhabhāsiṃsu:

Các ẩn sĩ chúng tôi,
Ðến với Sambara,
Ðể xin Ngài bảo đảm,
Thí cho sự vô úy.
Hãy làm như Ngài muốn,
Hãy thí cho chúng tôi,
Những người đang sợ hãi,
Ðược khỏi phải sợ hãi.
‘Isayo sambaraṃ pattā,
yācanti abhayadakkhiṇaṃ;
Kāmaṅkaro hi te dātuṃ,
bhayassa abhayassa vā’ti.

(Sambara):

Ẩn sĩ như các Ông,
Không thể có vô úy,
Ðã phục vụ Sakka,
Vị trí không tốt lành,
Các Ông xin vô úy,
Ta cho sự sợ hãi.
‘Isīnaṃ abhayaṃ natthi,
duṭṭhānaṃ sakkasevinaṃ;
Abhayaṃ yācamānānaṃ,
bhayameva dadāmi vo’ti.

(Các ẩn sĩ):

Chúng tôi xin vô úy,
Ông lại cho sợ hãi,
Ta nhận vậy từ Ông,
Trọn đời, Ông sợ hãi!
‘Abhayaṃ yācamānānaṃ,
bhayameva dadāsi no;
Paṭiggaṇhāma te etaṃ,
akkhayaṃ hotu te bhayaṃ.

Tùy hột giống đã gieo,
Ông gặt quả như vậy.
Làm thiện được quả thiện,
Làm ác bị quả ác,
Giống đã gieo và trồng,
Ông sẽ hưởng kết quả.
Yādisaṃ vapate bījaṃ,
tādisaṃ harate phalaṃ;
Kalyāṇakārī kalyāṇaṃ,
pāpakārī ca pāpakaṃ;
Pavuttaṃ tāta te bījaṃ,
phalaṃ paccanubhossasī’ti.

Này các Tỷ-kheo, các vị ẩn sĩ trì giới, tánh hiền thiện ấy, sau khi thốt lời chú nguyện chống A-tu-la vương Sambara, như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, liền biến mất trước mặt A-tu-la vương Sambara và hiện ra trong các chòi lá trên bờ biển.
Atha kho, bhikkhave, te isayo sīlavanto kalyāṇadhammā sambaraṃ asurindaṃ abhisapitvā—seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya; evameva—sambarassa asurindassa sammukhe antarahitā samuddatīre paṇṇakuṭīsu pāturahesuṃ.

Này các Tỷ-kheo, A-tu-la vương Sambara, bị các ẩn sĩ trì giới, tánh hiền thiện ấy chú nguyện như vậy, trong đêm ấy thức dậy hoảng hốt ba lần.”
Atha kho, bhikkhave, sambaro asurindo tehi isīhi sīlavantehi kalyāṇadhammehi abhisapito rattiyā sudaṃ tikkhattuṃ ubbijjī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt