Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 11.19

Tương Ưng Bộ 11.19
Saṃyutta Nikāya 11.19

Phẩm Thứ Hai
2. Dutiyavagga

Sakka Ðảnh Lễ (2)
Satthāravandanāsutta

Tại Sāvatthī trong Rừng Jeta.
Sāvatthiyaṃ jetavane.

“Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka nói với người đánh xe Mātali:
“Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sakko devānamindo mātaliṃ saṅgāhakaṃ āmantesi:

‘Này Mātali thân, hãy thắng ngàn con ngựa khéo huấn luyện vào cỗ xe. Chúng ta hãy đi đến vườn cảnh để ngắm cảnh.’
‘yojehi, samma mātali, sahassayuttaṃ ājaññarathaṃ, uyyānabhūmiṃ gacchāma subhūmiṃ dassanāyā’ti.

‘Thưa vâng, Tôn giả,’ này các Tỷ-kheo, người đánh xe Mātali vâng đáp Thiên chủ Sakka, sau khi thắng một ngàn con ngựa khéo huấn luyện vào cỗ xe, liền báo với Sakka:
‘Evaṃ, bhaddantavā’ti kho, bhikkhave, mātali saṅgāhako sakkassa devānamindassa paṭissutvā sahassayuttaṃ ājaññarathaṃ yojetvā sakkassa devānamindassa paṭivedesi:

‘Thưa Ngài, ngàn con ngựa khéo huấn luyện đã được thắng vào cỗ xe. Nay Ngài hãy làm những gì Ngài nghĩ là hợp thời.’
‘yutto kho te, mārisa, sahassayutto ājaññaratho. Yassadāni kālaṃ maññasī’ti.

Này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka, từ cung điện Vejayanta đi xuống, chắp tay kính lễ Thế Tôn.
Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo vejayantapāsādā orohanto añjaliṃ katvā sudaṃ bhagavantaṃ namassati.

Rồi Mātali, người đánh xe nói lên những bài kệ với Thiên chủ Sakka:
Atha kho, bhikkhave, mātali saṅgāhako sakkaṃ devānamindaṃ gāthāya ajjhabhāsi:

Thiên, Nhân kính lễ Ngài,
Hỡi này Vāsava.
Dạ-xoa ấy tên gì
Vị mà Ngài đảnh lễ,
Này Sakka?
‘Yañhi devā manussā ca,
taṃ namassanti vāsava;
Atha ko nāma so yakkho,
yaṃ tvaṃ sakka namassasī’ti.

(Sakka):

Bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác,
Ðời này với chư Thiên,
Bậc Ðạo Sư tối thượng,
Vị ấy ta đảnh lễ,
Hỡi này Mātali!
‘Yo idha sammāsambuddho,
asmiṃ loke sadevake;
Anomanāmaṃ satthāraṃ,
taṃ namassāmi mātali.

Những vị đã đoạn trừ,
Tham, sân và vô minh,
Bậc lậu tận, La-hán,
Vị ấy ta đảnh lễ,
Hỡi này Mātali!
Yesaṃ rāgo ca doso ca,
avijjā ca virājitā;
Khīṇāsavā arahanto,
te namassāmi mātali.

Bậc điều phục tham sân,
Vượt khỏi màn vô minh,
Hoan hỷ đoạn tái sanh,
Các bậc thuộc hữu học,
Không phóng dật, tu học,
Vị ấy ta đảnh lễ,
Hỡi này Mātali!
Ye rāgadosavinayā,
avijjāsamatikkamā;
Sekkhā apacayārāmā,
appamattānusikkhare;
Te namassāmi mātalī’ti.

(Mātali):

Phải tôi cũng được nghe,
Ở đời bậc tối thượng,
Sakka Ngài đảnh lễ,
Những vị Ngài đảnh lễ,
Tôi cũng đều đảnh lễ,
Ôi này Vāsava.
‘Seṭṭhā hi kira lokasmiṃ,
ye tvaṃ sakka namassasi;
Ahampi te namassāmi,
ye namassasi vāsavā’ti.

Maghavā nói vậy,
Vua của các thiên chúng,
Chồng của nàng Sujā,
Ðảnh lễ Thế Tôn xong,
Lên xe, dẫn đi đầu.
Idaṃ vatvāna maghavā,
devarājā sujampati;
Bhagavantaṃ namassitvā,
pamukho rathamāruhī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt