Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 12.60

Tương Ưng Bộ 12.60
Saṃyutta Nikāya 12.60

6. Phẩm Cây
6. Dukkhavagga

Nhân
Nidānasutta

Một thời Thế Tôn trú giữa dân chúng Kuru, tại một thị trấn của dân chúng Kuru tên là Kammāsadamma.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā kurūsu viharati kammāsadhammaṃ nāma kurūnaṃ nigamo.

Rồi Tôn giả Ānanda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā ānando yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca:

“Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn!
“acchariyaṃ, bhante, abbhutaṃ, bhante.

Bạch Thế Tôn, sâu xa thay là định lý Duyên khởi này, và sâu xa thật là định nghĩa này. Nhưng đối với con định lý ấy có vẻ rõ ràng, minh bạch!”
Yāva gambhīro cāyaṃ, bhante, paṭiccasamuppādo gambhīrāvabhāso ca, atha ca pana me uttānakuttānako viya khāyatī”ti.

“Chớ có nói vậy, này Ānanda! Chớ có nói vậy, này Ānanda!
“Mā hevaṃ, ānanda, mā hevaṃ, ānanda.

Sâu xa thay, này Ānanda là định lý Duyên khởi này, và sâu xa thật là định nghĩa này.
Gambhīro cāyaṃ, ānanda, paṭiccasamuppādo gambhīrāvabhāso ca.

Này Ānanda, chính vì không hiểu rõ pháp này, không giác ngộ, không chứng nhập pháp này mà chúng sanh nay bị rối ren như cuộn chỉ, bị phủ đầy bởi bệnh cằn cỗi, như cỏ munjà, như cây lau, không thoát khỏi sự luân hồi trong cõi dữ, ác thú, đọa xứ.
Etassa, ānanda, dhammassa ananubodhā appaṭivedhā evamayaṃ pajā tantākulakajātā kulagaṇṭhikajātā muñjapabbajabhūtā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ saṃsāraṃ nātivattati.

Này Ānanda, ai sống thấy vị ngọt trong các pháp được chấp thủ, ái được tăng trưởng.
Upādāniyesu, ānanda, dhammesu assādānupassino viharato taṇhā pavaḍḍhati.

Do duyên ái, hữu có mặt.
Taṇhāpaccayā upādānaṃ;

Do duyên hữu, sanh có mặt.
upādānapaccayā bhavo;

Do duyên sanh, già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh khởi.
bhavapaccayā jāti; jātipaccayā jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā sambhavanti.

Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti.

Này Ānanda, ví như một cây lớn,
Seyyathāpi, ānanda, mahārukkho.

các rễ của cây ấy đâm xuống và đâm ngang, tất cả rễ ấy đều hút lên nhựa sống cho cây ấy.
Tassa yāni ceva mūlāni adhogamāni, yāni ca tiriyaṅgamāni, sabbāni tāni uddhaṃ ojaṃ abhiharanti.

Này Ānanda, cây lớn ấy được nuôi dưỡng như vậy, được tiếp tế như vậy, có thể đứng vững trong một thời gian dài.
Evañhi so, ānanda, mahārukkho tadāhāro tadupādāno ciraṃ dīghamaddhānaṃ tiṭṭheyya.

Cũng vậy, này Ānanda, ai sống thấy vị ngọt trong các pháp được chấp thủ, ái được tăng trưởng.
Evameva kho, ānanda, upādāniyesu dhammesu assādānupassino viharato taṇhā pavaḍḍhati.

Do duyên ái, thủ có mặt.
Taṇhāpaccayā upādānaṃ;

Do duyên thủ, hữu có mặt... (như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
upādānapaccayā bhavo ...pe... evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti.

Này Ānanda, ai sống thấy sự tai hại trong các pháp chấp thủ, ái được đoạn diệt.
Upādāniyesu, ānanda, dhammesu ādīnavānupassino viharato taṇhā nirujjhati.

Do ái diệt nên thủ diệt.
Taṇhānirodhā upādānanirodho;

Do thủ diệt nên hữu diệt ... (như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
upādānanirodhā bhavanirodho ...pe... evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hoti.

Này Ānanda, ví như một cây lớn,
Seyyathāpi, ānanda, mahārukkho.

rồi có người đi đến, cầm cái cuốc và cái giỏ.
Atha puriso āgaccheyya kuddālapiṭakaṃ ādāya.

Người ấy chặt đứt rễ cây ấy. Sau khi chặt đứt rễ, người ấy đào một cái mương. Sau khi đào mương, người ấy nhổ lên các rễ lớn cho đến các rễ con, rễ phụ.
So taṃ rukkhaṃ mūle chindeyya, mūle chetvā palikhaṇeyya, palikhaṇitvā mūlāni uddhareyya antamaso usīranāḷimattānipi.

Người ấy chặt cây ấy ra từng khúc. Sau khi chặt ra từng khúc, người ấy bửa. Sau khi bửa, người ấy chẻ ra từng miếng nhỏ. Sau khi chẻ ra từng miếng nhỏ, người ấy phơi giữa gió và nắng. Sau khi phơi giữa gió và nắng, người ấy lấy lửa đốt. Sau khi lấy lửa đốt, người ấy vun lại thành đống tro. Sau khi vun lại thành đống tro, hoặc người ấy sàng trong gió lớn hay đổ vào dòng nước chảy mạnh để nước cuốn đi.
So taṃ rukkhaṃ khaṇḍākhaṇḍikaṃ chindeyya. Khaṇḍākhaṇḍikaṃ chinditvā phāleyya; phāletvā sakalikaṃ sakalikaṃ kareyya, sakalikaṃ sakalikaṃ karitvā vātātape visoseyya, vātātape visosetvā agginā ḍaheyya, agginā ḍahetvā masiṃ kareyya, masiṃ karitvā mahāvāte vā ophuṇeyya, nadiyā vā sīghasotāya pavāheyya.

Như vậy, này Ānanda, cây lớn ấy sẽ bị chặt đứt, làm thành như cây Thốt nốt, không thể nào tái sanh, không thể sanh khởi lại trong tương lai.
Evañhi so, ānanda, mahārukkho ucchinnamūlo assa tālāvatthukato anabhāvaṅkato āyatiṃ anuppādadhammo.

Như vậy, này Ānanda, ai sống thấy tai hại trong các pháp được chấp thủ, ái được đoạn diệt.
Evameva kho, ānanda, upādāniyesu dhammesu ādīnavānupassino viharato taṇhā nirujjhati.

Do ái diệt nên thủ diệt.
Taṇhānirodhā upādānanirodho;

Do thủ diệt nên hữu diệt.
upādānanirodhā bhavanirodho;

Do hữu diệt nên sanh diệt.
bhavanirodhā jātinirodho;

Do sanh diệt, nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não đều diệt.
jātinirodhā jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā nirujjhanti.

Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.”
Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hotī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt