Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 12.63

Tương Ưng Bộ 12.63
Saṃyutta Nikāya 12.63

7. Đại Phẩm Thứ Bảy
7. Mahāvagga

Thịt Ðứa Con
Puttamaṃsasutta

Tại Sāvatthī.
Sāvatthiyaṃ ...

“Này các Tỷ-kheo, có bốn loại đồ ăn này đưa đến sự tồn tại, hay sự chấp thủ tái sanh cho các loài hữu tình hay chúng sanh. Thế nào là bốn?
“cattārome, bhikkhave, āhārā bhūtānaṃ vā sattānaṃ ṭhitiyā sambhavesīnaṃ vā anuggahāya. Katame cattāro?

Ðoàn thực hoặc thô, hoặc tế; thứ hai là xúc thực; thứ ba là tư niệm thực; thứ tư là thức thực.
Kabaḷīkāro āhāro oḷāriko vā sukhumo vā, phasso dutiyo, manosañcetanā tatiyā, viññāṇaṃ catutthaṃ.

Này các Tỷ-kheo, bốn loại đồ ăn này đưa đến sự tồn tại, hay sự chấp thủ tái sanh cho các loài hữu tình hay các loài chúng sanh.
Ime kho, bhikkhave, cattāro āhārā bhūtānaṃ vā sattānaṃ ṭhitiyā sambhavesīnaṃ vā anuggahāya.

Và này các Tỷ-kheo, đoàn thực cần phải nhận xét như thế nào?
Kathañca, bhikkhave, kabaḷīkāro āhāro daṭṭhabbo?

Ví như, này các Tỷ-kheo, hai vợ chồng đem theo một ít lương thực đi qua một quãng đường hoang dã.
Seyyathāpi, bhikkhave, dve jāyampatikā parittaṃ sambalaṃ ādāya kantāramaggaṃ paṭipajjeyyuṃ.

Với một đứa con khả ái, thương mến.
Tesamassa ekaputtako piyo manāpo.

Rồi này các Tỷ-kheo, trong khi hai vợ chồng ấy đang đi trên con đường hoang vu, số lương thực ít ỏi ấy đi đến hao mòn, khánh tận.
Atha kho tesaṃ, bhikkhave, dvinnaṃ jāyampatikānaṃ kantāragatānaṃ yā parittā sambalamattā, sā parikkhayaṃ pariyādānaṃ gaccheyya.

Và một vùng hoang vu còn lại chưa được họ vượt qua.
Siyā ca nesaṃ kantārāvaseso anatiṇṇo.

Rồi này các Tỷ-kheo, hai vợ chồng người ấy suy nghĩ:
Atha kho tesaṃ, bhikkhave, dvinnaṃ jāyampatikānaṃ evamassa:

‘Ðồ lương thực ít ỏi của chúng ta đã bị hao mòn, khánh tận;
‘amhākaṃ kho yā parittā sambalamattā sā parikkhīṇā pariyādiṇṇā.

còn lại vùng hoang vu này chưa được vượt qua;
Atthi cāyaṃ kantārāvaseso anittiṇṇo.

vậy chúng ta hãy giết đứa con một, khả ái, dễ thương này, làm thành thịt khô và thịt ướp, ăn thịt đứa con và vượt qua vùng hoang vu còn lại này, chớ để tất cả ba chúng ta đều bị chết hại’.
Yannūna mayaṃ imaṃ ekaputtakaṃ piyaṃ manāpaṃ vadhitvā vallūrañca soṇḍikañca karitvā puttamaṃsāni khādantā evaṃ taṃ kantārāvasesaṃ nitthareyyāma, mā sabbeva tayo vinassimhā’ti.

Rồi hai vợ chồng ấy giết đứa con một, khả ái, dễ thương ấy, làm thịt khô và thịt ướp, ăn thịt người con và vượt qua vùng hoang vu còn lại ấy.
Atha kho te, bhikkhave, dve jāyampatikā taṃ ekaputtakaṃ piyaṃ manāpaṃ vadhitvā vallūrañca soṇḍikañca karitvā puttamaṃsāni khādantā evaṃ taṃ kantārāvasesaṃ nitthareyyuṃ.

Họ vừa ăn thịt con, vừa đập ngực, than khóc:
Te puttamaṃsāni ceva khādeyyuṃ, ure ca paṭipiseyyuṃ:

‘Ðứa con một ở đâu? Ðứa con một ở đâu?’
‘kahaṃ, ekaputtaka, kahaṃ, ekaputtakā’ti.

Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào?
Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave,

Họ ăn món ăn có phải để vui chơi? Hay họ ăn món ăn để tham đắm? Hay họ ăn món ăn để trang sức? Hay họ ăn món ăn để béo tốt?”
api nu te davāya vā āhāraṃ āhāreyyuṃ, madāya vā āhāraṃ āhāreyyuṃ, maṇḍanāya vā āhāraṃ āhāreyyuṃ, vibhūsanāya vā āhāraṃ āhāreyyun”ti?

“Thưa không phải vậy, bạch Thế Tôn.”
“No hetaṃ, bhante”.

“Có phải họ ăn các món ăn chỉ với mục đích vượt qua vùng hoang vu?”
“Nanu te, bhikkhave, yāvadeva kantārassa nittharaṇatthāya āhāraṃ āhāreyyun”ti?

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”
“Evaṃ, bhante”.

“Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói đoàn thực cần phải nhận xét như vậy.
“‘Evameva khvāhaṃ, bhikkhave, kabaḷīkāro āhāro daṭṭhabbo’ti vadāmi.

Này các Tỷ-kheo, khi đoàn thực được hiểu biết, thời lòng tham đối với năm dục trưởng dưỡng được hiểu biết.
Kabaḷīkāre, bhikkhave, āhāre pariññāte pañca kāmaguṇiko rāgo pariññāto hoti.

Khi lòng tham đối với năm dục trưởng dưỡng được hiểu biết, thời không còn kiết sử, do kiết sử này, một vị Thánh đệ tử bị trói buộc để phải sanh lại đời này.
Pañca kāmaguṇike rāge pariññāte natthi taṃ saṃyojanaṃ yena saṃyojanena saṃyutto ariyasāvako puna imaṃ lokaṃ āgaccheyya.

Và này các Tỷ-kheo, xúc thực cần phải nhận xét như thế nào?
Kathañca, bhikkhave, phassāhāro daṭṭhabbo?

Này các Tỷ-kheo, ví như một con bò cái bị lở da, nếu nó đứng dựa vào tường, thời các sanh vật sống ở tường cắn nó.
Seyyathāpi, bhikkhave, gāvī niccammā kuṭṭañce nissāya tiṭṭheyya. Ye kuṭṭanissitā pāṇā te naṃ khādeyyuṃ.

Nếu nó đứng dựa vào cây, thời các sanh vật sống ở cây cắn nó.
Rukkhañce nissāya tiṭṭheyya, ye rukkhanissitā pāṇā te naṃ khādeyyuṃ.

Nếu nó đứng ở trong nước, thời các sanh vật sống ở trong nước cắn nó.
Udakañce nissāya tiṭṭheyya, ye udakanissitā pāṇā te naṃ khādeyyuṃ.

Nếu nó đứng giữa hư không, thời các sanh vật giữa hư không cắn nó.
Ākāsañce nissāya tiṭṭheyya, ye ākāsanissitā pāṇā te naṃ khādeyyuṃ.

Này các Tỷ-kheo, con bò cái ấy đứng dựa vào chỗ nào, thời các sanh vật trong các chỗ ấy cắn nó.
Yaṃ yadeva hi sā, bhikkhave, gāvī niccammā nissāya tiṭṭheyya, ye tannissitā pāṇā te naṃ khādeyyuṃ.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói xúc thực cần phải được nhận xét.
Evameva khvāhaṃ, bhikkhave, ‘phassāhāro daṭṭhabbo’ti vadāmi.

Này các Tỷ-kheo, khi xúc thực được hiểu biết, thời ba cảm thọ được hiểu biết.
Phasse, bhikkhave, āhāre pariññāte tisso vedanā pariññātā honti.

Khi ba cảm thọ được hiểu biết, thời Ta nói rằng vị Thánh đệ tử không có gì cần phải làm thêm nữa.
Tīsu vedanāsu pariññātāsu ariyasāvakassa natthi kiñci uttarikaraṇīyanti vadāmi.

Và này các Tỷ-kheo, tư niệm thực cần phải nhận xét như thế nào?
Kathañca, bhikkhave, manosañcetanāhāro daṭṭhabbo?

Này các Tỷ-kheo, ví như một hố than hừng, sâu hơn một thân người, chứa đầy than cháy đỏ rực, hừng cháy không có khói.
Seyyathāpi, bhikkhave, aṅgārakāsu sādhikaporisā puṇṇā aṅgārānaṃ vītaccikānaṃ vītadhūmānaṃ.

Rồi một người đi đến, muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, chán ghét khổ.
Atha puriso āgaccheyya jīvitukāmo amaritukāmo sukhakāmo dukkhappaṭikūlo.

Rồi hai người lực sĩ đi đến, nắm chặt hai cánh tay người ấy, kéo người ấy đến hố than hừng ấy.
Tamenaṃ dve balavanto purisā nānābāhāsu gahetvā taṃ aṅgārakāsuṃ upakaḍḍheyyuṃ.

Này các Tỷ-kheo, người ấy quyết chí muốn lánh xa, tinh cần muốn lánh xa, phát nguyện muốn lánh xa hố than hừng ấy. Vì sao?
Atha kho, bhikkhave, tassa purisassa ārakāvassa cetanā ārakā patthanā ārakā paṇidhi. Taṃ kissa hetu?

Này các Tỷ-kheo, người ấy chỉ nghĩ như sau:
Evañhi, bhikkhave, tassa purisassa hoti:

‘Nếu ta rơi vào hố than hừng này, do nhân duyên ấy, ta đi đến chết, hay đi đến khổ gần như chết’.
‘imañcāhaṃ aṅgārakāsuṃ papatissāmi, tatonidānaṃ maraṇaṃ vā nigacchāmi maraṇamattaṃ vā dukkhan’ti.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng tư niệm thực cần phải nhận xét.
Evameva khvāhaṃ, bhikkhave, ‘manosañcetanāhāro daṭṭhabbo’ti vadāmi.

Này các Tỷ-kheo, khi tư niệm thực được hiểu biết, thời ba ái được hiểu biết.
Manosañcetanāya, bhikkhave, āhāre pariññāte tisso taṇhā pariññātā honti.

Khi ba ái được hiểu biết, Ta nói rằng vị Thánh đệ tử không có gì cần phải làm thêm nữa.
Tīsu taṇhāsu pariññātāsu ariyasāvakassa natthi kiñci uttarikaraṇīyanti vadāmi.

Và này các Tỷ-kheo, thức thực cần phải nhận xét như thế nào?
Kathañca, bhikkhave, viññāṇāhāro daṭṭhabbo?

Ví như, này các Tỷ-kheo, người ta bắt một người ăn trộm, một người phạm tội, dẫn đến vua và thưa:
Seyyathāpi, bhikkhave, coraṃ āgucāriṃ gahetvā rañño dasseyyuṃ:

‘Thưa Ðại vương, người này là người ăn trộm, một người phạm tội. Hãy trừng phạt người ấy nếu như Ngài muốn’.
‘ayaṃ te, deva, coro āgucārī, imassa yaṃ icchasi taṃ daṇḍaṃ paṇehī’ti.

Vị vua nói như sau về người ấy:
Tamenaṃ rājā evaṃ vadeyya:

‘Các Ông hãy đi và đánh người này với một trăm hèo vào buổi sáng’.
‘gacchatha, bho, imaṃ purisaṃ pubbaṇhasamayaṃ sattisatena hanathā’ti.

Và họ đánh người ấy với một trăm hèo vào buổi sáng.
Tamenaṃ pubbaṇhasamayaṃ sattisatena haneyyuṃ.

Rồi vị vua vào buổi trưa nói:
Atha rājā majjhanhikasamayaṃ evaṃ vadeyya:

‘Này các Ông, người ấy như thế nào?’
‘ambho, kathaṃ so puriso’ti?

‘Thưa Ðại vương, người ấy vẫn còn sống’.
‘Tatheva, deva, jīvatī’ti.

Rồi vua nói về người ấy:
Tamenaṃ rājā evaṃ vadeyya:

‘Này các Ông, các Ông hãy đi và đánh người này một trăm hèo vào buổi trưa’.
‘gacchatha, bho, taṃ purisaṃ majjhanhikasamayaṃ sattisatena hanathā’ti.

Và họ đánh người ấy một trăm hèo vào buổi trưa.
Tamenaṃ majjhanhikasamayaṃ sattisatena haneyyuṃ.

Rồi vị vua vào buổi chiều nói:
Atha rājā sāyanhasamayaṃ evaṃ vadeyya:

‘Này các Ông, người ấy như thế nào?’
‘ambho, kathaṃ so puriso’ti?

‘Thưa Ðại vương, người ấy vẫn còn sống’.
‘Tatheva, deva, jīvatī’ti.

Rồi vua nói về người ấy:
Tamenaṃ rājā evaṃ vadeyya:

‘Này các Ông, các Ông hãy đi và đánh người này một trăm hèo vào buổi chiều’.
‘gacchatha, bho, taṃ purisaṃ sāyanhasamayaṃ sattisatena hanathā’ti.

Và họ đánh người ấy một trăm hèo vào buổi chiều.
Tamenaṃ sāyanhasamayaṃ sattisatena haneyyuṃ.

Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào?
Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave,

Người ấy trong ngày bị đánh đến ba trăm hèo, do nhân duyên ấy có cảm thọ khổ ưu không?”
api nu so puriso divasaṃ tīhi sattisatehi haññamāno tatonidānaṃ dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvediyethā”ti?

“Bạch Thế Tôn, chỉ bị đánh một hèo, do nhân duyên ấy có cảm thọ khổ ưu,
“Ekissāpi, bhante, sattiyā haññamāno tatonidānaṃ dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvediyetha;

còn nói gì bị đánh đến ba trăm hèo!”
ko pana vādo tīhi sattisatehi haññamāno”ti.

“Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói thức thực cần phải nhận xét.
“Evameva khvāhaṃ, bhikkhave, viññāṇāhāro daṭṭhabboti vadāmi.

Này các Tỷ-kheo, khi thức thực đựơc hiểu rõ, thời danh sắc được hiểu rõ. Khi danh sắc được hiểu rõ, thời Ta nói rằng vị Thánh đệ tử không làm gì thêm nữa.”
Viññāṇe, bhikkhave, āhāre pariññāte nāmarūpaṃ pariññātaṃ hoti, nāmarūpe pariññāte ariyasāvakassa natthi kiñci uttarikaraṇīyanti vadāmī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt