Tương Ưng Bộ 12.65
Saṃyutta Nikāya 12.65
7. Đại Phẩm Thứ Bảy
7. Mahāvagga
Thành Ấp
Nagarasutta
Tại Sāvatthī.
Sāvatthiyaṃ viharati.
“Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, trước khi Ta giác ngộ, chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, còn là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau:
“Pubbe me, bhikkhave, sambodhā anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato etadahosi:
‘Thật sự thế giới này bị hãm trong khổ não, bị sanh, bị già, bị chết, bị đoạn diệt, và bị tái sanh;
‘kicchā vatāyaṃ loko āpanno jāyati ca jīyati ca mīyati ca cavati ca upapajjati ca.
và từ nơi đau khổ này, không biết xuất ly khỏi già và chết;
Atha ca panimassa dukkhassa nissaraṇaṃ nappajānāti jarāmaraṇassa.
từ nơi đau khổ này, không biết khi nào được biết đến xuất ly khỏi già và chết’.
Kudāssu nāma imassa dukkhassa nissaraṇaṃ paññāyissati jarāmaraṇassā’ti?
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi:
‘Do cái gì có mặt, già chết hiện hữu? Do cái gì, già chết sanh khởi?’
‘kimhi nu kho sati jarāmaraṇaṃ hoti, kiṃpaccayā jarāmaraṇan’ti?
Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi Ta như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau:
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:
‘Do sanh có mặt nên già chết hiện hữu. Do duyên sanh, nên già chết sanh khởi’.
‘jātiyā kho sati jarāmaraṇaṃ hoti, jātipaccayā jarāmaraṇan’ti.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi:
‘Do cái gì có mặt, sanh hiện hữu ...
‘kimhi nu kho sati jāti hoti ...pe...
hữu hiện hữu ...
bhavo hoti ...
Thủ hiện hữu ...
upādānaṃ hoti ...
Ái hiện hữu ...
taṇhā hoti ...
Thọ hiện hữu ...
vedanā hoti ...
Xúc hiện hữu ...
phasso hoti ...
Sáu xứ hiện hữu ...
saḷāyatanaṃ hoti ...
Danh sắc hiện hữu ...
nāmarūpaṃ hoti ...
Do duyên cái gì, danh sắc sanh khởi?’
kiṃpaccayā nāmarūpan’ti?
Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi Ta như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau:
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:
‘Do thức có mặt nên danh sắc hiện hữu. Do duyên thức nên danh sắc sanh khởi’.
‘viññāṇe kho sati nāmarūpaṃ hoti, viññāṇapaccayā nāmarūpan’ti.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi:
‘Do cái gì có mặt, thức hiện hữu. Do duyên cái gì, thức sanh khởi?’
‘kimhi nu kho sati viññāṇaṃ hoti, kiṃpaccayā viññāṇan’ti?
Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi Ta như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau:
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:
‘Do danh sắc có mặt nên thức hiện hữu. Do duyên danh sắc nên thức sanh khởi’.
‘nāmarūpe kho sati viññāṇaṃ hoti, nāmarūpapaccayā viññāṇan’ti.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi—
Thức này trở lui, không đi xa hơn danh sắc.
paccudāvattati kho idaṃ viññāṇaṃ nāmarūpamhā na paraṃ gacchati.
Xa đến như vậy, chúng ta bị sanh, bị già, bị chết, bị đoạn diệt, bị tái sanh, nghĩa là do duyên danh sắc, thức sanh khởi.
Ettāvatā jāyetha vā jīyetha vā mīyetha vā cavetha vā upapajjetha vā, yadidaṃ nāmarūpapaccayā viññāṇaṃ;
Do duyên thức, danh sắc sanh khởi.
viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ;
Do duyên danh sắc, sáu xứ sanh khởi.
nāmarūpapaccayā saḷāyatanaṃ;
Do duyên sáu xứ, xúc sanh khởi..
saḷāyatanapaccayā phasso ...pe...
Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti.
‘Tập khởi, tập khởi’. Này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước chưa từng được nghe, nhãn khởi lên, trí khởi lên, tuệ khởi lên, minh khởi lên, quang khởi lên.
‘Samudayo, samudayo’ti kho me, bhikkhave, pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi:
‘Do cái gì không có mặt, già chết không hiện hữu?
‘kimhi nu kho asati, jarāmaraṇaṃ na hoti;
Do cái gì diệt, già chết diệt?’
kissa nirodhā jarāmaraṇanirodho’ti?
Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi Ta như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau:
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:
‘Do sanh không có mặt, nên già chết không hiện hữu.
‘jātiyā kho asati, jarāmaraṇaṃ na hoti;
Do sanh diệt, nên già chết diệt’.
jātinirodhā jarāmaraṇanirodho’ti.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi:
‘Do cái gì không có mặt, sanh không hiện hữu ...
‘kimhi nu kho asati jāti na hoti ...pe...
Hữu không hiện hữu ...
bhavo na hoti ...
Thủ không hiện hữu ...
upādānaṃ na hoti ...
Ái không hiện hữu ...
taṇhā na hoti ...
Thọ không hiện hữu ...
vedanā na hoti ...
Xúc không hiện hữu ...
phasso na hoti ...
Sáu xứ không hiện hữu ...
saḷāyatanaṃ na hoti ...
Danh sắc không hiện hữu.
nāmarūpaṃ na hoti.
Do cái gì diệt, danh sắc diệt’
Kissa nirodhā nāmarūpanirodho’ti?
Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi Ta như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau:
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:
‘Do thức không có mặt, danh sắc không hiện hữu.
‘viññāṇe kho asati, nāmarūpaṃ na hoti;
Do thức diệt nên danh sắc diệt’.
viññāṇanirodhā nāmarūpanirodho’ti.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi:
‘Do cái gì không có mặt, thức không hiện hữu?
‘kimhi nu kho asati viññāṇaṃ na hoti;
Do cái gì diệt, nên thức diệt ?’
kissa nirodhā viññāṇanirodho’ti?
Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi Ta như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau:
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, yoniso manasikārā ahu paññāya abhisamayo:
‘Do danh sắc không có mặt, thức không hiện hữu.
‘nāmarūpe kho asati, viññāṇaṃ na hoti;
Do danh sắc diệt nên thức diệt’.
nāmarūpanirodhā viññāṇanirodho’ti.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi—
Ta đã chứng đắc con đường này đưa đến giác ngộ, tức là:
adhigato kho myāyaṃ maggo bodhāya yadidaṃ—
do danh sắc diệt nên thức diệt.
nāmarūpanirodhā viññāṇanirodho;
Do thức diệt nên danh sắc diệt.
viññāṇanirodhā nāmarūpanirodho;
Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt.
nāmarūpanirodhā saḷāyatananirodho;
Do sáu xứ diệt nên xúc diệt ...(như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt”.
saḷāyatananirodhā phassanirodho ...pe... evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hoti.
‘Ðoạn diệt, đoạn diệt’. Này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh.
‘Nirodho, nirodho’ti kho me, bhikkhave, pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi.
Ví như, này các Tỷ-kheo, một người khi đi qua một khu rừng, một chặng núi, thấy được một con đường cũ, một đạo lộ cũ do những người xưa đã từng đi qua.
Seyyathāpi, bhikkhave, puriso araññe pavane caramāno passeyya purāṇaṃ maggaṃ purāṇañjasaṃ pubbakehi manussehi anuyātaṃ.
Người ấy đi theo con đường ấy, trong khi đi theo con đường ấy, người ấy thấy được một cổ thành, một cố đô do người xưa ở, với đầy đủ vườn tược, đầy đủ rừng cây, đầy đủ hồ ao với thành lũy đẹp đẽ.
So tamanugaccheyya. Tamanugacchanto passeyya purāṇaṃ nagaraṃ purāṇaṃ rājadhāniṃ pubbakehi manussehi ajjhāvuṭṭhaṃ ārāmasampannaṃ vanasampannaṃ pokkharaṇīsampannaṃ uddhāpavantaṃ ramaṇīyaṃ.
Rồi này các Tỷ-kheo, người ấy báo cáo với vua hay vị đại thần:
Atha kho so, bhikkhave, puriso rañño vā rājamahāmattassa vā āroceyya:
‘Chư tôn hãy biết, trong khi đi ngang một khu rừng, một chặng núi, tôi thấy được một con đường cũ, một đạo lộ cũ do những người xưa đã từng đi qua.
‘yagghe, bhante, jāneyyāsi—ahaṃ addasaṃ araññe pavane caramāno purāṇaṃ maggaṃ purāṇañjasaṃ pubbakehi manussehi anuyātaṃ tamanugacchiṃ.
Tôi đã đi theo con đường ấy và thấy được một cổ thành, một cố đô do người xưa ở, với đầy đủ vườn tược, đầy đủ rừng cây, đầy đủ hồ ao, với thành lũy đẹp đẽ.
Tamanugacchanto addasaṃ purāṇaṃ nagaraṃ purāṇaṃ rājadhāniṃ pubbakehi manussehi ajjhāvuṭṭhaṃ ārāmasampannaṃ vanasampannaṃ pokkharaṇīsampannaṃ uddhāpavantaṃ ramaṇīyaṃ.
Thưa các Tôn giả, hãy xây dựng lại ngôi thành ấy’.
Taṃ, bhante, nagaraṃ māpehī’ti.
Rồi này các Tỷ-kheo, vị vua hay vị đại thần cho xây dựng lại ngôi thành ấy.
Atha kho so, bhikkhave, rājā vā rājamahāmatto vā taṃ nagaraṃ māpeyya.
Và ngôi thành ấy, sau một thời gian lớn lên và trở thành một thành phố phồn vinh, thịnh vượng, đông đúc, tràn đầy người ở.
Tadassa nagaraṃ aparena samayena iddhañceva phītañca bāhujaññaṃ ākiṇṇamanussaṃ vuddhivepullappattaṃ.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ta đã thấy một con đường cũ, một đạo lộ cũ do các vị Chánh Ðẳng Giác thuở xưa đã đi qua.
Evameva khvāhaṃ, bhikkhave, addasaṃ purāṇaṃ maggaṃ purāṇañjasaṃ pubbakehi sammāsambuddhehi anuyātaṃ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường cũ, đạo lộ cũ ấy do các vị Chánh Ðẳng Giác thuở xưa đã đi qua?
Katamo ca so, bhikkhave, purāṇamaggo purāṇañjaso pubbakehi sammāsambuddhehi anuyāto?
Ðây chính là con đường Thánh đạo tám ngành, tức là:
Ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, seyyathidaṃ—
chánh tri kiến... chánh định.
sammādiṭṭhi ...pe... sammāsamādhi.
Con đường ấy, này các Tỷ-kheo, là con đường cũ, đạo lộ cũ do các bậc Chánh Ðẳng Giác thuở xưa đã đi qua.
Ayaṃ kho so, bhikkhave, purāṇamaggo purāṇañjaso pubbakehi sammāsambuddhehi anuyāto, tamanugacchiṃ;
Ta đã đi theo con đường ấy.
tamanugacchanto jarāmaraṇaṃ abbhaññāsiṃ;
Ði theo con đường ấy, Ta thấy rõ già chết;
jarāmaraṇasamudayaṃ abbhaññāsiṃ;
Ta thấy rõ già, chết tập khởi;
jarāmaraṇanirodhaṃ abbhaññāsiṃ;
Ta thấy rõ già chết đoạn diệt; Ta thấy rõ con đường đưa đến già chết đoạn diệt.
jarāmaraṇanirodhagāminiṃ paṭipadaṃ abbhaññāsiṃ.
Ta đã đi theo con đường ấy.
Tamanugacchiṃ;
Ði theo con đường ấy; Ta thấy rõ sanh...
tamanugacchanto jātiṃ abbhaññāsiṃ ...pe...
Ta thấy rõ hữu...
bhavaṃ abbhaññāsiṃ ...
Ta thấy rõ thủ...
upādānaṃ abbhaññāsiṃ ...
Ta thấy rõ ái...
taṇhaṃ abbhaññāsiṃ ...
Ta thấy rõ thọ...
vedanaṃ abbhaññāsiṃ ...
Ta thấy rõ xúc...
phassaṃ abbhaññāsiṃ ...
Ta thấy rõ sáu xứ...
saḷāyatanaṃ abbhaññāsiṃ ...
Ta thấy rõ danh sắc...
nāmarūpaṃ abbhaññāsiṃ ...
Ta thấy rõ thức...
viññāṇaṃ abbhaññāsiṃ.
Ta đi theo con đường ấy.
Tamanugacchiṃ;
Ði theo con đường ấy, Ta thấy rõ các hành;
tamanugacchanto saṅkhāre abbhaññāsiṃ;
Ta thấy rõ các hành tập khởi;
saṅkhārasamudayaṃ abbhaññāsiṃ;
Ta thấy rõ các hành đoạn diệt,
saṅkhāranirodhaṃ abbhaññāsiṃ;
Ta thấy rõ con đường đưa đến các hành đoạn diệt.
saṅkhāranirodhagāminiṃ paṭipadaṃ abbhaññāsiṃ.
Cái được Ta biết rõ, Ta đã tuyên bố cho các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ được biết.
Tadabhiññāya ācikkhiṃ bhikkhūnaṃ bhikkhunīnaṃ upāsakānaṃ upāsikānaṃ.
Này các Tỷ-kheo, tức là Phạm hạnh này, phồn vinh, thịnh vượng, quảng đại, chúng đa, người nhiều và được chư Thiên, loài Người khéo léo trình bày.”
Tayidaṃ, bhikkhave, brahmacariyaṃ iddhañceva phītañca vitthārikaṃ bāhujaññaṃ puthubhūtaṃ yāva devamanussehi suppakāsitan”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt