Tương Ưng Bộ 15.20
Saṃyutta Nikāya 15.20
Phẩm Thứ Hai
2. Dutiyavagga
Núi Vepulla
Vepullapabbatasutta
Một thời Thế Tôn trú ở Rājagaha (Vương Xá), tại núi Gijjhakūta (Linh Thứu).
Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate.
Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”.
Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi: “bhikkhavo”ti.
“Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Các Tỷ-kheo vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
“Bhadante”ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca:
“Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo.
“Anamataggoyaṃ, bhikkhave, saṃsāro.
Khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.
Pubbā koṭi na paññāyati avijjānīvaraṇānaṃ sattānaṃ taṇhāsaṃyojanānaṃ sandhāvataṃ saṃsarataṃ.
Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, núi Vepulla này được biết với tên là Pācīnavaṃsa.
Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, imassa vepullassa pabbatassa ‘pācīnavaṃso’tveva samaññā udapādi.
Lúc bấy giờ, dân chúng được biết với tên là Tivara.
Tena kho pana, bhikkhave, samayena manussānaṃ ‘tivarā’tveva samaññā udapādi.
Này các Tỷ-kheo, dân chúng Tivara có tuổi thọ đến 40.000 năm.
Tivarānaṃ, bhikkhave, manussānaṃ cattārīsa vassasahassāni āyuppamāṇaṃ ahosi.
Này các Tỷ-kheo, dân chúng Tivara phải bốn ngày để leo lên núi Pācīnavaṃsa, phải bốn ngày để leo xuống.
Tivarā, bhikkhave, manussā pācīnavaṃsaṃ pabbataṃ catūhena ārohanti, catūhena orohanti.
Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kakusandha, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời.
Tena kho pana, bhikkhave, samayena kakusandho bhagavā arahaṃ sammāsambuddho loke uppanno hoti.
Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kakusandha, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác, có hai vị đệ tử, hai vị thượng thủ, hiền thiện tên là Vidhura và Sañjīva.
Kakusandhassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa vidhurasañjīvaṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ.
Hãy nhìn xem, này các Tỷ-kheo, tên của hòn núi ấy đã biến mất, dân chúng ấy đã mệnh chung, và bậc Thế Tôn ấy đã nhập diệt.
Passatha, bhikkhave, sā cevimassa pabbatassa samaññā antarahitā, te ca manussā kālaṅkatā, so ca bhagavā parinibbuto.
Vô thường như vậy, này các Tỷ-kheo, là các hành.
Evaṃ aniccā, bhikkhave, saṅkhārā;
Không kiên cố như vậy, này các Tỷ-kheo, là các hành.
evaṃ addhuvā, bhikkhave, saṅkhārā;
Bất an như vậy, này các Tỷ-kheo, là các hành.
evaṃ anassāsikā, bhikkhave, saṅkhārā.
Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo là vừa đủ để nhàm chán, là vừa đủ để từ bỏ, là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các hành.
Yāvañcidaṃ, bhikkhave, alameva sabbasaṅkhāresu nibbindituṃ, alaṃ virajjituṃ, alaṃ vimuccituṃ.
Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, núi Vepulla này được biết với tên là Vaṅkaka.
Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, imassa vepullassa pabbatassa ‘vaṅkako’tveva samaññā udapādi.
Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, dân chúng được biết với tên là Rohita.
Tena kho pana, bhikkhave, samayena manussānaṃ ‘rohitassā’tveva samaññā udapādi.
Này các Tỷ-kheo, dân chúng Rohita có tuổi thọ đến 30.000 năm.
Rohitassānaṃ, bhikkhave, manussānaṃ tiṃsavassasahassāni āyuppamāṇaṃ ahosi.
Này các Tỷ-kheo, dân chúng Rohita phải ba ngày để leo lên núi Vaṅkaka, phải ba ngày để leo xuống.
Rohitassā, bhikkhave, manussā vaṅkakaṃ pabbataṃ tīhena ārohanti, tīhena orohanti.
Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Koṇāgamana, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời.
Tena kho pana, bhikkhave, samayena koṇāgamano bhagavā arahaṃ sammāsambuddho loke uppanno hoti.
Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Koṇāgamana, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác, có hai vị đệ tử, hai vị thượng thủ, hiền thiện tên là Bhiyyosa và Uttara.
Koṇāgamanassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa bhiyyosuttaraṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ.
Hãy nhìn xem, này các Tỷ-kheo, tên của hòn núi ấy đã biến mất, dân chúng ấy đã mệnh chung, và bậc Thế Tôn ấy đã nhập diệt.
Passatha, bhikkhave, sā cevimassa pabbatassa samaññā antarahitā, te ca manussā kālaṅkatā, so ca bhagavā parinibbuto.
Vô thường như vậy, này các Tỷ-kheo, là các hành ... là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các hành.
Evaṃ aniccā, bhikkhave, saṅkhārā ...pe... alaṃ vimuccituṃ.
Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, núi Vepulla này được biết với tên là Supassa.
Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, imassa vepullassa pabbatassa ‘supasso’tveva samaññā udapādi.
Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, dân chúng được biết với tên là Suppiya.
Tena kho pana, bhikkhave, samayena manussānaṃ ‘suppiyā’tveva samaññā udapādi.
Này các Tỷ-kheo, dân chúng Suppiya có tuổi thọ đến 20.000 năm.
Suppiyānaṃ, bhikkhave, manussānaṃ vīsativassasahassāni āyuppamāṇaṃ ahosi.
Này các Tỷ-kheo, dân chúng Suppiya phải hai ngày để leo núi Supassa, phải hai ngày để leo xuống.
Suppiyā, bhikkhave, manussā supassaṃ pabbataṃ dvīhena ārohanti, dvīhena orohanti.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn Kassapa, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời.
Tena kho pana, bhikkhave, samayena kassapo bhagavā arahaṃ sammāsambuddho loke uppanno hoti.
Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kassapa, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác, có hai đệ tử, hai vị thượng thủ, hiền thiện tên là Tissa và Bhāradvāja.
Kassapassa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa tissabhāradvājaṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ.
Hãy nhìn xem, này các Tỷ-kheo, tên của hòn núi ấy đã biến mất, dân chúng ấy đã mệnh chung, và bậc Thế Tôn ấy đã nhập diệt.
Passatha, bhikkhave, sā cevimassa pabbatassa samaññā antarahitā, te ca manussā kālaṅkatā, so ca bhagavā parinibbuto.
Vô thường như vậy, này các Tỷ-kheo, là các hành.
Evaṃ aniccā, bhikkhave, saṅkhārā;
Không kiên cố như vậy, này các Tỷ-kheo, là các hành ... là vừa đủ để được giải thoát đối với tất cả các hành.
evaṃ addhuvā, bhikkhave, saṅkhārā ...pe... alaṃ vimuccituṃ.
Hiện tại, này các Tỷ-kheo, núi Vepulla này được biết với tên là Vepulla.
Etarahi kho pana, bhikkhave, imassa vepullassa pabbatassa ‘vepullo’tveva samaññā udapādi.
Hiện tại, này các Tỷ-kheo, dân chúng ấy được biết với tên là Magadhaka.
Etarahi kho pana, bhikkhave, imesaṃ manussānaṃ ‘māgadhakā’tveva samaññā udapādi.
Tuổi thọ dân chúng Magadhaka ấy, này các Tỷ-kheo, là ít, nhẹ, không bao nhiêu, họ sống lâu cho đến 100 tuổi hay hơn một chút.
Māgadhakānaṃ, bhikkhave, manussānaṃ appakaṃ āyuppamāṇaṃ parittaṃ lahukaṃ; yo ciraṃ jīvati so vassasataṃ appaṃ vā bhiyyo.
Dân chúng Magadhaka, này các Tỷ-kheo, leo lên núi Vepulla này trong một thời gian ngắn, leo xuống trong một thời gian ngắn.
Māgadhakā, bhikkhave, manussā vepullaṃ pabbataṃ muhuttena ārohanti muhuttena orohanti.
Hiện tại, này các Tỷ-kheo, Ta, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời.
Etarahi kho panāhaṃ, bhikkhave, arahaṃ sammāsambuddho loke uppanno.
Này các Tỷ-kheo, Ta có hai vị đệ tử, hai vị thượng thủ, hiền thiện tên là Sāriputta và Moggallāna.
Mayhaṃ kho pana, bhikkhave, sāriputtamoggallānaṃ nāma sāvakayugaṃ aggaṃ bhaddayugaṃ.
Một thời sẽ đến, này các Tỷ-kheo, tên của ngọn núi này sẽ biến mất, dân chúng sẽ mệnh chung, và Ta sẽ nhập diệt.
Bhavissati, bhikkhave, so samayo yā ayañcevimassa pabbatassa samaññā antaradhāyissati, ime ca manussā kālaṃ karissanti, ahañca parinibbāyissāmi.
Vô thường như vậy, này các Tỷ-kheo, là các hành.
Evaṃ aniccā, bhikkhave, saṅkhārā;
Không kiên cố, này các Tỷ-kheo, là các hành.
evaṃ addhuvā, bhikkhave, saṅkhārā;
Bất an như vậy, này các Tỷ-kheo, là các hành.
evaṃ anassāsikā, bhikkhave, saṅkhārā.
Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là vừa đủ để được nhàm chán, là vừa đủ để từ bỏ, là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các hành”.
Yāvañcidaṃ, bhikkhave, alameva sabbasaṅkhāresu nibbindituṃ, alaṃ virajjituṃ, alaṃ vimuccitun”ti.
Thế Tôn nói như vậy, bậc Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:
Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā:
“Pācīnavaṃsa,
Với dân Tivara,
Tên núi Vaṅkaka,
Với dân Rohita,
Tên núi Supassa,
Với dân Suppiya,
Tên núi Vepulla,
Với dân Magadha.
“Pācīnavaṃso tivarānaṃ,
rohitassāna vaṅkako;
Suppiyānaṃ supassoti,
māgadhānañca vepullo.
Chư hành là vô thường,
Phải sanh rồi phải diệt,
Sau khi sanh, chúng diệt,
Chúng tịnh là an lạc.
Aniccā vata saṅkhārā,
uppādavayadhammino;
Uppajjitvā nirujjhanti,
tesaṃ vūpasamo sukho”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt