Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 2.20

Tương Ưng Bộ 2.20
Saṃyutta Nikāya 2.20

2. Phẩm Cấp Cô Độc
2. Anāthapiṇḍikavagga

Anāthapiṇḍika
Anāthapiṇḍikasutta

Ðứng một bên, Thiên tử Cấp-Cô-Ðộc nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Ekamantaṃ ṭhito kho anāthapiṇḍiko devaputto bhagavato santike imā gāthāyo abhāsi:

“Ðây là rừng Kỳ Viên,
Chỗ trú xứ Thánh chúng,
Chỗ ở đấng Pháp Vương,
Khiến tâm con hoan hỷ.
“Idañhi taṃ jetavanaṃ,
isisaṅghanisevitaṃ;
Āvutthaṃ dhammarājena,
pītisañjananaṃ mama.

Nghiệp, minh và tâm pháp,
Giới và tối thắng mạng,
Chính những diệu pháp ấy,
Khiến chúng sanh thanh tịnh,
Không phải vì dòng họ,
Không phải vì tài sản.
Kammaṃ vijjā ca dhammo ca,
sīlaṃ jīvitamuttamaṃ;
Etena maccā sujjhanti,
na gottena dhanena vā.

Do vậy bậc Hiền giả,
Thấy lợi ích chính mình,
Chánh giác sát tâm pháp,
Như vậy được thanh tịnh.
Tasmā hi paṇḍito poso,
sampassaṃ atthamattano;
Yoniso vicine dhammaṃ,
evaṃ tattha visujjhati.

Như ngài Xá-lợi-phất,
Tuệ, giới và tịch tịnh,
Tỷ-kheo đến bờ giác,
Ở đây là tối thượng.”
Sāriputtova paññāya,
sīlena upasamena ca;
Yopi pāraṅgato bhikkhu,
etāvaparamo siyā”ti.

Thiên tử Anāthapiṇḍika nói như vậy, nói vậy xong, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, rồi biến mất tại chỗ ấy.
Idamavoca anāthapiṇḍiko devaputto. Idaṃ vatvā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyi.

Rồi Thế Tôn sau khi đêm ấy đã qua, liền gọi các Tỷ-kheo và nói: “Này các Tỷ-kheo, đêm nay có Thiên tử, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Ta, sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Ðứng một bên, này các Tỷ-kheo, vị Thiên tử ấy nói lên bài lệ này trước mặt Ta:
Atha kho bhagavā tassā rattiyā accayena bhikkhū āmantesi: “imaṃ, bhikkhave, rattiṃ aññataro devaputto abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho, bhikkhave, so devaputto mama santike imā gāthāyo abhāsi:

“Ðây là rừng Kỳ Viên,
Chỗ trú xứ Thánh chúng,
Chỗ ở đấng Pháp Vương,
Khiến tâm con hoan hỷ.
“Idañhi taṃ jetavanaṃ,
isisaṅghanisevitaṃ;
Āvutthaṃ dhammarājena,
pītisañjananaṃ mama.

Nghiệp, minh và tâm pháp,
Giới và tối thắng mạng,
Chính những diệu pháp ấy,
Khiến chúng sanh thanh tịnh,
Không phải vì dòng họ,
Không phải vì tài sản.
Kammaṃ vijjā ca dhammo ca,
sīlaṃ jīvitamuttamaṃ;
Etena maccā sujjhanti,
na gottena dhanena vā.

Do vậy bậc Hiền giả,
Thấy lợi ích chính mình,
Chánh giác sát tâm pháp,
Như vậy được thanh tịnh.
Tasmā hi paṇḍito poso,
sampassaṃ atthamattano;
Yoniso vicine dhammaṃ,
evaṃ tattha visujjhati.

Như ngài Xá-lợi-phất,
Tuệ, giới và tịch tịnh,
Tỷ-kheo đến bờ giác,
Ở đây là tối thượng.”
Sāriputtova paññāya,
sīlena upasamena ca;
Yopi pāraṅgato bhikkhu,
etāvaparamo siyā”ti.

Này các Tỷ-kheo, Thiên tử ấy nói như vậy, nói vậy xong, đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ.”
Idamavoca, bhikkhave, so devaputto. Idaṃ vatvā maṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyī”ti.

Ðược nghe nói như vậy, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, có phải vị Thiên tử ấy là Anāthapiṇḍika? Gia chủ Anāthapiṇḍika hết dạ tín thành đối với Tôn giả Sāriputta?”
Evaṃ vutte, āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca: “so hi nūna, bhante, anāthapiṇḍiko devaputto bhavissati. Anāthapiṇḍiko gahapati āyasmante sāriputte abhippasanno ahosī”ti.

“Lành thay! Lành thay! Này Ānanda, cho đến những gì có thể đạt được nhờ suy diễn, này Ānanda, Ông đã đạt được. Này Ānanda, Anāthapiṇḍika là vị Thiên tử ấy.”
“Sādhu sādhu, ānanda, yāvatakaṃ kho, ānanda, takkāya pattabbaṃ anuppattaṃ taṃ tayā. Anāthapiṇḍiko hi so, ānanda, devaputto”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt