Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 22.62

Tương Ưng Bộ 22.62
Saṃyutta Nikāya 22.62

Phẩm Tham Luyến
6. Upayavagga

Ngôn Lộ
Niruttipathasutta

Nhân duyên ở Sāvatthī.
Sāvatthinidānaṃ.

“Này các Tỷ-kheo, có ba loại này, ngôn lộ, danh ngôn lộ, thi thiết lộ, không có lẫn lộn, trước không lẫn lộn, nay không lẫn lộn, tương lai không lẫn lộn, không bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách. Thế nào là ba?
“Tayome, bhikkhave, niruttipathā adhivacanapathā paññattipathā asaṅkiṇṇā asaṅkiṇṇapubbā, na saṅkīyanti, na saṅkīyissanti, appaṭikuṭṭhā samaṇehi brāhmaṇehi viññūhi. Katame tayo?

Này các Tỷ-kheo, phàm sắc gì đã qua, đã đoạn diệt, đã biến hoại; sắc ấy được xác nhận là ‘đã có’, được xưng danh là ‘đã có’, được thi thiết là ‘đã có’. Sắc ấy không được xác nhận là ‘hiện có’, không được xác nhận là ‘sẽ có’.
Yaṃ, bhikkhave, rūpaṃ atītaṃ niruddhaṃ vipariṇataṃ ‘ahosī’ti tassa saṅkhā, ‘ahosī’ti tassa samaññā, ‘ahosī’ti tassa paññatti; na tassa saṅkhā ‘atthī’ti, na tassa saṅkhā ‘bhavissatī’ti.

Phàm thọ gì đã qua, đã đoạn diệt, đã biến hoại; thọ ấy được xác nhận là ‘đã có’, được xưng danh là ‘đã có’, được thi thiết là ‘đã có’. Thọ ấy không được xác nhận là ‘hiện có’, không được xác nhận là ‘sẽ có’.
Yā vedanā atītā niruddhā vipariṇatā ‘ahosī’ti tassā saṅkhā, ‘ahosī’ti tassā samaññā, ‘ahosī’ti tassā paññatti; na tassā saṅkhā ‘atthī’ti, na tassā saṅkhā ‘bhavissatī’ti.

Phàm tưởng gì đã qua...
Yā saññā ...

Phàm các hành gì đã qua, đã đoạn diệt, đã biến hoại; hành ấy được xác nhận là ‘đã có’, được xưng danh là ‘đã có’, được thi thiết là ‘đã có’. Hành ấy không được xác nhận là ‘hiện có’, không được xác nhận là ‘sẽ có’.
ye saṅkhārā atītā niruddhā vipariṇatā ‘ahesun’ti tesaṃ saṅkhā, ‘ahesun’ti tesaṃ samaññā, ‘ahesun’ti tesaṃ paññatti; na tesaṃ saṅkhā ‘atthī’ti, na tesaṃ saṅkhā ‘bhavissantī’ti.

Phàm thức gì đã qua, đã đoạn diệt, đã biến hoại; thức ấy được xác nhận là ‘đã có’, được xưng danh là ‘đã có’, được thi thiết là ‘đã có’. Thức ấy không được xác nhận là ‘hiện có’, không được xác nhận là ‘sẽ có’.
Yaṃ viññāṇaṃ atītaṃ niruddhaṃ vipariṇataṃ, ‘ahosī’ti tassa saṅkhā, ‘ahosī’ti tassa samaññā, ‘ahosī’ti tassa paññatti; na tassa saṅkhā ‘atthī’ti, na tassa saṅkhā ‘bhavissatī’ti.

Phàm sắc gì chưa sanh, chưa hiện hữu; sắc ấy được xác nhận là ‘sẽ có’, được xưng danh là ‘sẽ có’, được thi thiết là ‘sẽ có’. Sắc ấy không được xác nhận là ‘hiện có’, không được xác nhận là ‘đã có’.
Yaṃ, bhikkhave, rūpaṃ ajātaṃ apātubhūtaṃ, ‘bhavissatī’ti tassa saṅkhā, ‘bhavissatī’ti tassa samaññā, ‘bhavissatī’ti tassa paññatti; na tassa saṅkhā ‘atthī’ti, na tassa saṅkhā ‘ahosī’ti.

Phàm thọ gì chưa sanh, chưa hiện hữu; thọ ấy được xác nhận là ‘sẽ có’, được xưng danh là ‘sẽ có’, được thi thiết là ‘sẽ có’. Thọ ấy không được xác nhận là ‘hiện có’, thọ ấy không được xác nhận là ‘đã có’.
Yā vedanā ajātā apātubhūtā, ‘bhavissatī’ti tassā saṅkhā, ‘bhavissatī’ti tassā samaññā, ‘bhavissatī’ti tassā paññatti; na tassā saṅkhā ‘atthī’ti, na tassā saṅkhā ‘ahosī’ti.

Phàm tưởng gì...
Yā saññā ...

Phàm các hành gì chưa sanh, chưa hiện hữu; hành ấy được xác nhận là ‘sẽ có’, được xưng danh là ‘sẽ có’, được thi thiết là ‘sẽ có’. Hành ấy không được xác nhận là ‘hiện có’, hành ấy không được xác nhận là ‘đã có’.
ye saṅkhārā ajātā apātubhūtā, ‘bhavissantī’ti tesaṃ saṅkhā, ‘bhavissantī’ti tesaṃ samaññā, ‘bhavissantī’ti tesaṃ paññatti; na tesaṃ saṅkhā ‘atthī’ti, na tesaṃ saṅkhā ‘ahesun’ti.

Phàm thức gì chưa sanh, chưa hiện hữu; thức ấy được xác nhận là ‘sẽ có’, được xưng danh là ‘sẽ có’, được thi thiết là ‘sẽ có’. Thức ấy không được xác nhận là ‘hiện có’, thức ấy không được xác nhận là ‘đã có’.
Yaṃ viññāṇaṃ ajātaṃ apātubhūtaṃ, ‘bhavissatī’ti tassa saṅkhā, ‘bhavissatī’ti tassa samaññā, ‘bhavissatī’ti tassa paññatti; na tassa saṅkhā ‘atthī’ti, na tassa saṅkhā ‘ahosī’ti.

Này các Tỷ-kheo, phàm sắc gì đã sanh, đã hiện hữu; sắc ấy được xác nhận là ‘hiện có’, được xưng danh là ‘hiện có’, được thi thiết là ‘hiện có’. Sắc ấy không được xác nhận là ‘đã có’, không được xác nhận là ‘sẽ có’.
Yaṃ, bhikkhave, rūpaṃ jātaṃ pātubhūtaṃ, ‘atthī’ti tassa saṅkhā, ‘atthī’ti tassa samaññā, ‘atthī’ti tassa paññatti; na tassa saṅkhā ‘ahosī’ti, na tassa saṅkhā ‘bhavissatī’ti.

Phàm thọ gì đã sanh, đã hiện hữu; thọ ấy được xác nhận là ‘hiện có’, được xưng danh là ‘hiện có’, được thi thiết là ‘hiện có’. Thọ ấy không được xác nhận là ‘đã có’, không được xác nhận là ‘sẽ có’.
Yā vedanā jātā pātubhūtā, ‘atthī’ti tassā saṅkhā, ‘atthī’ti tassā samaññā, ‘atthī’ti tassā paññatti; na tassā saṅkhā ‘ahosī’ti, na tassā saṅkhā ‘bhavissatī’ti.

Phàm tưởng gì...
Yā saññā ...

Phàm các hành gì...
ye saṅkhārā jātā pātubhūtā, ‘atthī’ti tesaṃ saṅkhā, ‘atthī’ti tesaṃ samaññā, ‘atthī’ti tesaṃ paññatti; na tesaṃ saṅkhā ‘ahesun’ti, na tesaṃ saṅkhā, ‘bhavissantī’ti.

Phàm thức gì đã sanh, đã hiện hữu; thức ấy được xác nhận là ‘hiện có’, được xưng danh là ‘hiện có’, được thi thiết là ‘hiện có’. Thức ấy không được xác nhận là ‘đã có’, thức ấy không được xác nhận là ‘sẽ có’.
Yaṃ viññāṇaṃ jātaṃ pātubhūtaṃ, ‘atthī’ti tassa saṅkhā, ‘atthī’ti tassa samaññā, ‘atthī’ti tassa paññatti; na tassa saṅkhā ‘ahosī’ti, na tassa saṅkhā ‘bhavissatī’ti.

Này các Tỷ-kheo, có ba loại này, ngôn lộ, danh ngôn lộ, thi thiết lộ, không có lẫn lộn, trước không lẫn lộn, nay không lẫn lộn, tương lai không lẫn lộn, không bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách.
Ime kho, bhikkhave, tayo niruttipathā adhivacanapathā paññattipathā asaṅkiṇṇā asaṅkiṇṇapubbā, na saṅkīyanti, na saṅkīyissanti, appaṭikuṭṭhā samaṇehi brāhmaṇehi viññūhi.

Tuy vậy, Vassa và Bhañña ở Ukkalā, những vị thuyết pháp trong thời an cư mùa mưa, các vị vô nhân luận giả, các vị vô tác luận giả, các vị vô hữu luận giả, những vị ấy cũng không có nghĩ rằng ngôn lộ, danh ngôn lộ, thi thiết lộ này không đáng quở trách, không đáng khinh miệt. Vì sao? Vì rằng, họ sợ quở trách, công kích, phẫn nộ, chỉ trích”.
Yepi te, bhikkhave, ahesuṃ ukkalā vassabhaññā ahetukavādā akiriyavādā natthikavādā, tepime tayo niruttipathe adhivacanapathe paññattipathe na garahitabbaṃ nappaṭikkositabbaṃ amaññiṃsu. Taṃ kissa hetu? Nindāghaṭṭanabyārosaupārambhabhayā”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt