Tương Ưng Bộ 23.1
Saṃyutta Nikāya 23.1
Phẩm Thứ Nhất
1. Paṭhamamāravagga
Māra
Mārasutta
Nhân duyên ở Sāvatthī.
Sāvatthinidānaṃ.
Rồi Tôn giả Rādha đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Rādha bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā rādho yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā rādho bhagavantaṃ etadavoca:
“‘Màra, Màra’, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, được gọi là Màra?”
“‘Māro, māro’ti, bhante, vuccati. Kittāvatā nu kho, bhante, māro”ti?
“Nếu có sắc, này Rādha, thời có chết hay có sát giả, hay có sự chết. Do vậy, này Rādha, Ông hãy thấy sắc là sự chết, hãy thấy là sát giả, hãy thấy là bị chết, hãy thấy là bệnh, hãy thấy là ung nhọt, hãy thấy là mũi tên, hãy thấy là bất hạnh, hãy thấy tự tánh là bất hạnh. Những ai thấy sắc như vậy là thấy chơn chánh.
“Rūpe kho, rādha, sati māro vā assa māretā vā yo vā pana mīyati. Tasmātiha tvaṃ, rādha, rūpaṃ māroti passa, māretāti passa, mīyatīti passa, rogoti passa, gaṇḍoti passa, sallanti passa, aghanti passa, aghabhūtanti passa. Ye naṃ evaṃ passanti te sammā passanti.
Thọ ... tưởng ... các hành ... Nếu có thức, này Rādha, thời có chết, hay có sát giả, hay có bị chết. Do vậy, này Rādha, Ông hãy thấy thức là sự chết, hãy thấy là sát giả, hãy thấy là bị chết, hãy thấy là bệnh hoạn, hãy thấy là ung nhọt, hãy thấy là mũi tên, hãy thấy là bất hạnh, hãy thấy tự tánh là bất hạnh. Những ai thấy thức như vậy là thấy chơn chánh”.
Vedanāya sati ... saññāya sati ... saṅkhāresu sati ... viññāṇe sati māro vā assa māretā vā yo vā pana mīyati. Tasmātiha tvaṃ, rādha, viññāṇaṃ māroti passa, māretāti passa, mīyatīti passa, rogoti passa, gaṇḍoti passa, sallanti passa, aghanti passa, aghabhūtanti passa. Ye naṃ evaṃ passanti, te sammā passantī”ti.
“Bạch Thế Tôn, chánh quán với mục đích gì?”
“Sammādassanaṃ pana, bhante, kimatthiyan”ti?
“Chánh quán, này Rādha, với mục đích nhàm chán”.
“Sammādassanaṃ kho, rādha, nibbidatthaṃ”.
“Bạch Thế Tôn, nhàm chán với mục đích gì?”
“Nibbidā pana, bhante, kimatthiyā”ti?
“Nhàm chán, này Rādha, với mục đích ly tham”.
“Nibbidā kho, rādha, virāgatthā”.
“Bạch Thế Tôn, ly tham với mục đích gì?”
“Virāgo pana, bhante, kimatthiyo”ti?
“Ly tham, này Rādha, với mục đích được giải thoát”.
“Virāgo kho, rādha, vimuttattho”.
“Bạch Thế Tôn, giải thoát với mục đích gì?”
“Vimutti pana, bhante, kimatthiyā”ti?
“Giải thoát, này Rādha, với mục đích Niết-bàn”.
“Vimutti kho, rādha, nibbānatthā”.
“Bạch Thế Tôn, Niết-bàn với mục đích gì?”
“Nibbānaṃ pana, bhante, kimatthiyan”ti?
“Này Rādha, Ông đi quá xa với câu hỏi này, không thế nắm được giới hạn của câu hỏi. Nhập vào Niết-bàn, này Rādha, là sự thực hành Phạm hạnh; Niết-bàn là mục tiêu cuối cùng; Niết-bàn là cứu cánh”.
“Accayāsi, rādha, pañhaṃ, nāsakkhi pañhassa pariyantaṃ gahetuṃ. Nibbānogadhañhi, rādha, brahmacariyaṃ vussati, nibbānaparāyanaṃ nibbānapariyosānan”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt