Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 35.136

Tương Ưng Bộ 35.136
Saṃyutta Nikāya 35.136

14. Phẩm Devadaha
14. Devadahavagga

Không Thâu Nhiếp (1)
Paṭhamarūpārāmasutta

“Này các Tỷ-kheo, chư Thiên và Người đời thích thú sắc, bị sắc kích thích. Khi sắc biến hoại, ly tham, đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, chư Thiên và Người đời sống đau khổ.
“Rūpārāmā, bhikkhave, devamanussā rūparatā rūpasammuditā. Rūpavipariṇāmavirāganirodhā dukkhā, bhikkhave, devamanussā viharanti.

Này các Tỷ-kheo, chư Thiên và Người đời thích thú thanh, bị thanh kích thích. Khi sắc biến hoại, ly tham, đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, chư Thiên và Người đời sống đau khổ.
Saddārāmā, bhikkhave, devamanussā saddaratā saddasammuditā. Saddavipariṇāmavirāganirodhā dukkhā, bhikkhave, devamanussā viharanti.

Thích thú hương ...
Gandhārāmā ...

thích thú vị ...
rasārāmā ...

thích thú xúc ...
phoṭṭhabbārāmā ...

Này các Tỷ-kheo, chư Thiên và Người đời thích thú pháp, bị pháp kích thích. Khi pháp biến hoại, ly tham, đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, chư Thiên và Người đời sống đau khổ.
dhammārāmā, bhikkhave, devamanussā dhammaratā dhammasammuditā. Dhammavipariṇāmavirāganirodhā dukkhā, bhikkhave, devamanussā viharanti.

Này các Tỷ-kheo, Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, sau khi như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và xuất ly của sắc, không có thích thú sắc, không có ưa thích sắc, không bị sắc kích thích.
Tathāgato ca kho, bhikkhave, arahaṃ sammāsambuddho rūpānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ viditvā na rūpārāmo na rūparato na rūpasammudito.

Khi sắc biến hoại, ly tham, đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, Như Lai sống an lạc.
Rūpavipariṇāmavirāganirodhā sukho, bhikkhave, tathāgato viharati.

không thích thú tiếng ...
Saddānaṃ ...

không thích thú hương ...
gandhānaṃ ...

không thích thú vị ...
rasānaṃ ...

không thích thú xúc ...
phoṭṭhabbānaṃ ...

Sau khi như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của pháp, Như Lai không thích thú pháp, không ưa thích pháp, không bị pháp kích thích.
dhammānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ viditvā na dhammārāmo, na dhammarato, na dhammasammudito.

Khi pháp biến hoại, ly tham, đoạn diệt, Như Lai sống an lạc”.
Dhammavipariṇāmavirāganirodhā sukho, bhikkhave, tathāgato viharati”.

Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:
Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā:

“Sắc, thanh, hương, vị, xúc,
Và toàn thể các pháp,
Khả lạc, hỷ, khả ý,
Như vậy, chúng được gọi.
“Rūpā saddā rasā gandhā,
phassā dhammā ca kevalā;
Iṭṭhā kantā manāpā ca,
yāvatatthīti vuccati.

Chư Thiên và Người đời,
Xem chúng là khả lạc,
Chỗ nào chúng đoạn diệt,
Thiên, Nhân thấy đau khổ.
Sadevakassa lokassa,
ete vo sukhasammatā;
Yattha cete nirujjhanti,
taṃ tesaṃ dukkhasammataṃ.

Bậc Thánh thấy an lạc,
Khi thân kiến đoạn diệt,
Bậc Thánh xem trái ngược,
Mọi quan điểm của đời.
Sukhaṃ diṭṭhamariyebhi,
sakkāyassa nirodhanaṃ;
Paccanīkamidaṃ hoti,
sabbalokena passataṃ.

Ðiều người gọi là lạc,
Bậc Thánh gọi là khổ.
Ðiều người gọi là khổ,
Thánh nhân biết là lạc.
Yaṃ pare sukhato āhu,
tadariyā āhu dukkhato;
Yaṃ pare dukkhato āhu,
tadariyā sukhato vidū.

Thấy pháp khó nhận biết,
Kẻ vô trí mê loạn,
Tối tăm đối vô minh,
Mù lòa đối không thấy.
Passa dhammaṃ durājānaṃ,
sammūḷhettha aviddasu;
Nivutānaṃ tamo hoti,
andhakāro apassataṃ.

Bậc trí là rộng mở,
Như ánh sáng thấu tỏ,
Kẻ ngu, dầu ở gần,
Không nhận hiểu Đạo Pháp.
Satañca vivaṭaṃ hoti,
āloko passatāmiva;
Santike na vijānanti,
maggā dhammassa akovidā.

Bị tham sanh chinh phục,
Cuốn trôi theo dòng hữu,
Bị Ác ma chi phối,
Không giác ngộ pháp này.
Bhavarāgaparetebhi,
bhavarāgānusārībhi;
Māradheyyānupannehi,
nāyaṃ dhammo susambudho.

Không ai ngoài bậc thánh,
Giác ngộ con đường này,
Con đường đạt Niết-bàn,
Chánh trí thoát lậu hoặc”.
Ko nu aññatra mariyebhi,
Padaṃ sambuddhumarahati;
Yaṃ padaṃ sammadaññāya,
Parinibbanti anāsavā”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt