Tương Ưng Bộ 35.234
Saṃyutta Nikāya 35.234
18. Phẩm Biển
18. Samuddavagga
Udāyī
Udāyīsutta
Một thời Tôn giả Ānanda và Tôn giả Udāyī trú ở Kosambī, tại vườn Ghosita.
Ekaṃ samayaṃ āyasmā ca ānando āyasmā ca udāyī kosambiyaṃ viharanti ghositārāme.
Rồi Tôn giả Udāyī, vào buổi chiều, từ chỗ tịnh cư đứng dậy, đi đến Tôn giả Ānanda; sau khi đến nói lên với Tôn giả Ānanda những lời chào đón hỏi thăm ... rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho āyasmā udāyī sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yenāyasmā ānando tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā ānandena saddhiṃ sammodi.
Ngồi xuống một bên, Tôn giả Udāyī thưa với Tôn giả Ānanda:
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā udāyī āyasmantaṃ ānandaṃ etadavoca:
“Thưa Hiền giả Ānanda, như Thế Tôn dùng nhiều phương tiện đã nói lên, đã khai mở, đã nêu rõ ‘thân này là vô ngã’.
“Yatheva nu kho, āvuso ānanda, ayaṃ kāyo bhagavatā anekapariyāyena akkhāto vivaṭo pakāsito: ‘itipāyaṃ kāyo anattā’ti,
Có thể chăng, cũng như vậy tuyên bố, tuyên thuyết, tường thuyết, khai hiển, khai thị, phân biệt, minh hiển, minh thị rằng ‘thức này cũng vô ngã’?”
sakkā evameva viññāṇaṃ pidaṃ ācikkhituṃ desetuṃ paññapetuṃ paṭṭhapetuṃ vivarituṃ vibhajituṃ uttānīkātuṃ: ‘itipidaṃ viññāṇaṃ anattā’”ti?
“Này Hiền giả Udāyī, như Thế Tôn dùng nhiều pháp môn đã nói lên, đã khai mở, đã nêu rõ ‘thân này là vô ngã’.
“Yatheva kho, āvuso udāyī, ayaṃ kāyo bhagavatā anekapariyāyena akkhāto vivaṭo pakāsito: ‘itipāyaṃ kāyo anattā’ti,
Cũng như vậy, có thể tuyên bố, tuyên thuyết, tường thuyết, khai hiển, khai thị, phân biệt, minh hiển, minh thị rằng ‘thức này cũng vô ngã’.”
sakkā evameva viññāṇaṃ pidaṃ ācikkhituṃ desetuṃ paññapetuṃ paṭṭhapetuṃ vivarituṃ vibhajituṃ uttānīkātuṃ: ‘itipidaṃ viññāṇaṃ anattā’”ti.
“Này Hiền giả, có phải do duyên mắt và các sắc khởi lên nhãn thức?”
“Cakkhuñca, āvuso, paṭicca rūpe ca uppajjati cakkhuviññāṇan”ti?
“Thưa phải, Hiền giả”.
“Evamāvuso”ti.
“Này Hiền giả, do nhân nào, do duyên nào khởi lên nhãn thức, nếu nhân ấy, nếu duyên ấy một cách toàn diện, dưới mọi hình thức, được đoạn diệt hoàn toàn, không có dư tàn, thời nhãn thức có thể nêu rõ được không?”
“Yo cāvuso, hetu, yo ca paccayo cakkhuviññāṇassa uppādāya, so ca hetu, so ca paccayo sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ aparisesaṃ nirujjheyya. Api nu kho cakkhuviññāṇaṃ paññāyethā”ti?
“Thưa không, Hiền giả”.
“No hetaṃ, āvuso”.
“Với pháp môn, này Hiền giả, Thế Tôn đã tuyên thuyết, đã khai mở, đã nêu rõ: ‘thức này là vô ngã’” ... Có phải do duyên tai và các tiếng khởi lên nhĩ thức? ... Có phải do duyên mũi và các hương khởi lên tỷ thức? ...
“Imināpi kho etaṃ, āvuso, pariyāyena bhagavatā akkhātaṃ vivaṭaṃ pakāsitaṃ: ‘itipidaṃ viññāṇaṃ anattā’”ti ...pe....
“Có phải do duyên lưỡi và các vị khởi lên thiệt thức?” ... “Có phải do duyên thân và các xúc khởi lên thân thức?” ... “Này Hiền giả, có phải do duyên ý và các pháp khởi lên ý thức?”
“Jivhañcāvuso, paṭicca rase ca uppajjati jivhāviññāṇan”ti?
“Thưa phải, Hiền giả”.
“Evamāvuso”ti.
“Này Hiền giả, do nhân nào, do duyên nào khởi lên thiệt thức, nếu nhân ấy, nếu duyên ấy một cách toàn diện, dưới mọi hình thức, được đoạn diệt hoàn toàn, không có dư tàn, thời thiệt thức có thể nêu rõ được không?”
“Yo cāvuso, hetu yo ca paccayo jivhāviññāṇassa uppādāya, so ca hetu, so ca paccayo sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ aparisesaṃ nirujjheyya, api nu kho jivhāviññāṇaṃ paññāyethā”ti?
“Thưa không, Hiền giả”.
“No hetaṃ, āvuso”.
“Với pháp môn này, Thế Tôn đã tuyên thuyết, đã khai mở, đã nêu rõ: ‘thức này là vô ngã’” ...
“Imināpi kho etaṃ, āvuso, pariyāyena bhagavatā akkhātaṃ vivaṭaṃ pakāsitaṃ: ‘itipidaṃ viññāṇaṃ anattā’”ti ...pe....
“Có phải do duyên ý và các pháp khởi lên ý thức?”
“Manañcāvuso, paṭicca dhamme ca uppajjati manoviññāṇan”ti?
“Thưa phải, Hiền giả”.
“Evamāvuso”ti.
“Này Hiền giả, do nhân nào, do duyên nào khởi lên ý thức, nếu nhân ấy, nếu duyên ấy một cách toàn diện, dưới mọi hình thức, được đoạn diệt hoàn toàn, không có dư tàn, thời ý thức có thể nêu rõ được không?”
“Yo cāvuso, hetu, yo ca paccayo manoviññāṇassa uppādāya, so ca hetu, so ca paccayo sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ aparisesaṃ nirujjheyya, api nu kho manoviññāṇaṃ paññāyethā”ti?
“Thưa không, Hiền giả”.
“No hetaṃ, āvuso”.
“Với pháp môn này, thưa Hiền giả, Thế Tôn đã tuyên thuyết, đã khai mở, đã nêu rõ ‘thức này là vô ngã’.
“Imināpi kho etaṃ, āvuso, pariyāyena bhagavatā akkhātaṃ vivaṭaṃ pakāsitaṃ: ‘itipidaṃ viññāṇaṃ anattā’ti.
Ví như, này Hiền giả, một người cần dùng lõi cây, tìm cầu lõi cây, đi tìm lõi cây, cầm cây búa sắc bén đi vào trong rừng. Ở đấy, người này thấy một thân cây chuối lớn, thẳng, mới lớn và cao. Người ấy chặt đứt rễ cây, chặt đứt xong, người ấy chặt ngọn. Sau khi chặt ngọn, người ấy lột vỏ ngoài ra. Người ấy ở đây không tìm được giác cây, còn nói gì lõi cây.
Seyyathāpi, āvuso, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno tiṇhaṃ kuṭhāriṃ ādāya vanaṃ paviseyya. So tattha passeyya mahantaṃ kadalikkhandhaṃ ujuṃ navaṃ akukkukajātaṃ. Tamenaṃ mūle chindeyya; mūle chetvā agge chindeyya; agge chetvā pattavaṭṭiṃ vinibbhujeyya. So tattha pheggumpi nādhigaccheyya, kuto sāraṃ.
Cũng vậy, này Hiền giả, Tỷ-kheo trong sáu xúc xứ, không quán thấy có tự ngã và thuộc ngã.
Evameva kho, āvuso, bhikkhu chasu phassāyatanesu nevattānaṃ na attaniyaṃ samanupassati.
Do thấy như vậy, vị ấy không chấp thủ một cái gì ở trong đời.
So evaṃ asamanupassanto na kiñci loke upādiyati.
Do không chấp thủ, vị ấy không tham luyến. Do không tham luyến, vị ấy tự mình hoàn toàn tịch tịnh.
Anupādiyaṃ na paritassati. Aparitassaṃ paccattaññeva parinibbāyati.
Vị ấy biết rõ: ‘Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa’.”
‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānātī”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt