Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 35.245

Tương Ưng Bộ 35.245
Saṃyutta Nikāya 35.245

19. Phẩm Rắn Độc
19. Āsīvisavagga

Phải Gọi Là Gì
Kiṃsukopamasutta

Rồi một Tỷ-kheo đi đến một Tỷ-kheo khác, sau khi đến, nói với Tỷ-kheo ấy:
Atha kho aññataro bhikkhu yenaññataro bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ etadavoca:

“Cho đến như thế nào, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh?”
“kittāvatā nu kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṃ suvisuddhaṃ hotī”ti?

“Này Hiền giả, Tỷ-kheo khi nào như thật rõ biết sự tập khởi và sự đoạn diệt của sáu xúc xứ; cho đến như vậy, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh”.
“Yato kho, āvuso, bhikkhu channaṃ phassāyatanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca yathābhūtaṃ pajānāti, ettāvatā kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṃ suvisuddhaṃ hotī”ti.

Tỷ-kheo ấy không thỏa mãn với câu trả lời câu hỏi của Tỷ-kheo kia, liền đi đến một Tỷ-kheo khác và nói:
Atha kho so bhikkhu asantuṭṭho tassa bhikkhussa pañhaveyyākaraṇena, yenaññataro bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ etadavoca:

“Này Hiền giả, cho đến như thế nào, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh?”
“kittāvatā nu kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṃ suvisuddhaṃ hotī”ti?

“Này Hiền giả, khi nào Tỷ-kheo như thật rõ biết sự tập khởi và sự đoạn diệt của năm thủ uẩn; khi ấy, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh”.
“Yato kho, āvuso, bhikkhu pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ samudayañca atthaṅgamañca yathābhūtaṃ pajānāti, ettāvatā kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṃ suvisuddhaṃ hotī”ti.

Tỷ-kheo ấy không thỏa mãn với câu trả lời của Tỷ-kheo kia, liền đi đến một Tỷ-kheo khác nữa và nói:
Atha kho so bhikkhu asantuṭṭho tassa bhikkhussa pañhaveyyākaraṇena, yenaññataro bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ etadavoca:

“Này Hiền giả, cho đến như thế nào, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh?”
“kittāvatā nu kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṃ suvisuddhaṃ hotī”ti?

“Này Hiền giả, khi nào Tỷ-kheo như thật tuệ tri sự tập khởi và sự chấm dứt của bốn đại chủng; khi ấy, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh”.
“Yato kho, āvuso, bhikkhu catunnaṃ mahābhūtānaṃ samudayañca atthaṅgamañca yathābhūtaṃ pajānāti, ettāvatā kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṃ suvisuddhaṃ hotī”ti.

Rồi Tỷ-kheo ấy không thỏa mãn với câu trả lời của Tỷ-kheo kia, liền đi đến một Tỷ-kheo khác nữa và nói:
Atha kho so bhikkhu asantuṭṭho tassa bhikkhussa pañhaveyyākaraṇena, yenaññataro bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ etadavoca:

“Này Hiền giả, cho đến như thế nào, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh?”
“kittāvatā nu kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṃ suvisuddhaṃ hotī”ti?

“Này Hiền giả, khi nào Tỷ-kheo như thật rõ biết rằng, phàm pháp gì được khởi lên, tất cả pháp ấy đều phải đoạn diệt; khi ấy, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh”.
“Yato kho, āvuso, bhikkhu yaṃ kiñci samudayadhammaṃ, sabbaṃ taṃ nirodhadhammanti yathābhūtaṃ pajānāti, ettāvatā kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṃ suvisuddhaṃ hotī”ti.

Rồi Tỷ-kheo ấy không thỏa mãn với câu trả lời câu hỏi của Tỷ-kheo kia, liền đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
Atha kho so bhikkhu asantuṭṭho tassa bhikkhussa pañhaveyyākaraṇena, yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavoca:

“Ở đây, bạch Thế Tôn, con đi đến một Tỷ-kheo và nói với Tỷ-kheo ấy:
“idhāhaṃ, bhante, yenaññataro bhikkhu tenupasaṅkamiṃ; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ etadavocaṃ:

‘Cho đến như thế nào, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh?’
‘kittāvatā nu kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṃ suvisuddhaṃ hotī’ti?

Khi được nói vậy, Tỷ-kheo ấy nói với con:
Evaṃ vutte, bhante, so bhikkhu maṃ etadavoca:

‘Khi nào như thật tuệ tri sự tập khởi và sự chấm dứt của sáu xúc xứ; khi ấy, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh’.
‘yato kho, āvuso, bhikkhu channaṃ phassāyatanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca yathābhūtaṃ pajānāti, ettāvatā kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṃ suvisuddhaṃ hotī’ti.

Bạch Thế Tôn, con không thỏa mãn câu trả lời của Tỷ-kheo kia nên đi đến một Tỷ-kheo khác; sau khi đến, con nói với Tỷ-kheo ấy:
Atha khvāhaṃ, bhante, asantuṭṭho tassa bhikkhussa pañhaveyyākaraṇena, yenaññataro bhikkhu tenupasaṅkamiṃ; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ etadavocaṃ:

‘Cho đến như thế nào, này Hiền giả, sự thấy của một Tỷ-kheo khéo thanh tịnh?’
‘kittāvatā nu kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṃ suvisuddhaṃ hotī’ti?

Khi được nói vậy, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo ấy nói với con:
Evaṃ vutte, bhante, so bhikkhu maṃ etadavoca:

‘Khi nào, này Hiền giả, Tỷ-kheo như thật tuệ tri sự tập khởi và sự chấm dứt của năm thủ uẩn ...
‘yato kho, āvuso, bhikkhu pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ ...pe...

như thật tuệ tri sự tập khởi và sự chấm dứt của bốn đại chủng ...
catunnaṃ mahābhūtānaṃ samudayañca atthaṅgamañca yathābhūtaṃ pajānāti ...pe...

như thật tuệ tri rằng, phàm có pháp gì được tập khởi, tất cả pháp ấy bị đoạn diệt, cho đến như vậy, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh’.
yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhammanti yathābhūtaṃ pajānāti, ettāvatā kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṃ suvisuddhaṃ hotī’ti.

Bạch Thế Tôn, con không thỏa mãn câu trả lời câu hỏi của Tỷ-kheo kia nên con đi đến Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
Atha khvāhaṃ, bhante, asantuṭṭho tassa bhikkhussa pañhaveyyākaraṇena yena bhagavā tenupasaṅkamiṃ (...).

Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh?”
Kittāvatā nu kho, bhante, bhikkhuno dassanaṃ suvisuddhaṃ hotī”ti?

“Ví như, này Tỷ-kheo, một người chưa từng thấy cây Kimsuka, người ấy đi đến một người khác đã thấy cây Kimsuka và nói: ‘Này Bạn, cây Kimsuka là thế nào?’.
“Seyyathāpi, bhikkhu, purisassa kiṃsuko adiṭṭhapubbo assa. So yenaññataro puriso kiṃsukassa dassāvī tenupasaṅkameyya. Upasaṅkamitvā taṃ purisaṃ evaṃ vadeyya: ‘kīdiso, bho purisa, kiṃsuko’ti?

Người ấy đáp như sau: ‘Này Bạn, cây Kimsuka màu đen, như một khúc cây bị cháy’.
So evaṃ vadeyya: ‘kāḷako kho, ambho purisa, kiṃsuko—seyyathāpi jhāmakhāṇū’ti.

Như vậy, này Tỷ-kheo, trong thời gian ấy, cây Kimsuka đối với người ấy là giống như người kia đã thấy.
Tena kho pana, bhikkhu, samayena tādisovassa kiṃsuko yathāpi tassa purisassa dassanaṃ.

Rồi, này Tỷ-kheo, người ấy không thỏa mãn với câu trả lời của người kia, liền đi đến một người khác đã thấy cây Kimsuka, sau khi đến, hỏi người ấy: ‘Này Bạn, cây Kimsuka là thế nào?’
Atha kho so, bhikkhu, puriso asantuṭṭho tassa purisassa pañhaveyyākaraṇena, yenaññataro puriso kiṃsukassa dassāvī tenupasaṅkameyya; upasaṅkamitvā taṃ purisaṃ evaṃ vadeyya: ‘kīdiso, bho purisa, kiṃsuko’ti?

Người kia trả lời: ‘Này Bạn, cây Kimsuka màu đỏ, giống như một đống thịt’.
So evaṃ vadeyya: ‘lohitako kho, ambho purisa, kiṃsuko—seyyathāpi maṃsapesī’ti.

Và này Tỷ-kheo, như vậy trong thời gian ấy, cây Kimsuka đối với người ấy là giống như người kia đã thấy.
Tena kho pana, bhikkhu, samayena tādisovassa kiṃsuko yathāpi tassa purisassa dassanaṃ.

Rồi, này Tỷ-kheo, người ấy không thỏa mãn với câu trả lời của người kia, đi đến một người khác đã thấy cây Kimsuka, sau khi đến nói với người ấy: ‘Này Bạn, cây Kimsuka là thế nào?’
Atha kho so bhikkhu puriso asantuṭṭho tassa purisassa pañhaveyyākaraṇena, yenaññataro puriso kiṃsukassa dassāvī tenupasaṅkameyya; upasaṅkamitvā taṃ purisaṃ evaṃ vadeyya: ‘kīdiso, bho purisa, kiṃsuko’ti?

Người kia trả lời: ‘Này Bạn, cây Kimsuka bị lột vỏ, vỏ bị nứt nẻ ra như cây keo’.
So evaṃ vadeyya: ‘ocīrakajāto kho, ambho purisa, kiṃsuko ādinnasipāṭiko—seyyathāpi sirīso’ti.

Này Tỷ-kheo, trong thời gian ấy, cây Kimsuka đối với người ấy là giống như người kia đã thấy.
Tena kho pana, bhikkhu, samayena tādisovassa kiṃsuko, yathāpi tassa purisassa dassanaṃ.

Rồi, này Tỷ-kheo, người ấy không thỏa mãn với câu trả lời của người kia, liền đi đến một người khác đã thấy cây Kimsuka, sau khi đến, nói với người ấy: ‘Này Bạn, cây Kimsuka là thế nào?’
Atha kho so bhikkhu puriso asantuṭṭho tassa purisassa pañhaveyyākaraṇena, yenaññataro puriso kiṃsukassa dassāvī tenupasaṅkameyya; upasaṅkamitvā taṃ purisaṃ evaṃ vadeyya: ‘kīdiso, bho purisa, kiṃsuko’ti?

Người kia nói như sau: ‘Này Bạn, cây Kimsuka có lá rậm rạp, bóng của nó dày và rậm, như cây bàng’.
So evaṃ vadeyya: ‘bahalapattapalāso sandacchāyo kho, ambho purisa, kiṃsuko—seyyathāpi nigrodho’ti.

Như vậy, này Tỷ-kheo, trong thời gian ấy, cây Kimsuka đối với người ấy là giống như người kia đã thấy.
Tena kho pana, bhikkhu, samayena tādisovassa kiṃsuko, yathāpi tassa purisassa dassanaṃ.

Cũng vậy, này Tỷ-kheo, tùy theo sự thấy của Chân nhân ấy khéo thanh tịnh, tùy thuộc theo đấy, họ đã trả lời.
Evameva kho, bhikkhu, yathā yathā adhimuttānaṃ tesaṃ sappurisānaṃ dassanaṃ suvisuddhaṃ hoti tathā tathā kho tehi sappurisehi byākataṃ.

Ví như, này Tỷ-kheo, có ngôi thành của vua ở biên giới được xây dựng với pháo đài kiên cố, với tường và tháp canh kiên cố và có đến sáu cửa thành.
Seyyathāpi, bhikkhu, rañño paccantimaṃ nagaraṃ daḷhuddhāpaṃ daḷhapākāratoraṇaṃ chadvāraṃ.

Tại đấy có người giữ cửa thành, là bậc thông minh, có kinh nghiệm và có trí, ngăn chận những người không quen biết, cho vào những người quen biết.
Tatrassa dovāriko paṇḍito byatto medhāvī, aññātānaṃ nivāretā, ñātānaṃ pavesetā.

Từ phương Ðông, hai người sứ giả cấp tốc đi đến, và nói với người giữ cửa thành: ‘Này Bạn, vị chủ thành trì này ở đâu?’
Puratthimāya disāya āgantvā sīghaṃ dūtayugaṃ taṃ dovārikaṃ evaṃ vadeyya: ‘kahaṃ, bho purisa, imassa nagarassa nagarassāmī’ti?

Người giữa cửa thành ấy nói: ‘Thưa các Tôn giả, vị ấy đang ngồi giữa ngã tư đường’.
So evaṃ vadeyya: ‘eso, bhante, majjhe siṅghāṭake nisinno’ti.

Hai người sứ giả ấy cấp tốc tuyên bố lời như thật ngữ cho vị chủ ngôi thành, rồi tiếp tục đi theo con đường họ đến.
Atha kho taṃ sīghaṃ dūtayugaṃ nagarassāmikassa yathābhūtaṃ vacanaṃ niyyātetvā yathāgatamaggaṃ paṭipajjeyya.

Từ phương Tây, lại hai người sứ giả cấp tốc đi đến ...
Pacchimāya disāya āgantvā sīghaṃ dūtayugaṃ ...pe...

từ phương Bắc ...
uttarāya disāya ...

từ phương Nam, lại hai người sứ giả cấp tốc đi đến, và nói với người giữ cửa thành: ‘Này Bạn, vị chủ thành trì này ở đâu?’
dakkhiṇāya disāya āgantvā sīghaṃ dūtayugaṃ taṃ dovārikaṃ evaṃ vadeyya: ‘kahaṃ, bho purisa, imassa nagarassāmī’ti?

Người giữ cửa thành ấy nói: ‘Thưa các Tôn giả, vị ấy đang ngồi giữa ngã tư đường’.
So evaṃ vadeyya: ‘eso, bhante, majjhe siṅghāṭake nisinno’ti.

Rồi hai người sứ giả ấy cấp tốc tuyên bố lời như thật ngữ cho vị chủ ngôi thành, rồi tiếp tục theo con đường họ đến.
Atha kho taṃ sīghaṃ dūtayugaṃ nagarassāmikassa yathābhūtaṃ vacanaṃ niyyātetvā yathāgatamaggaṃ paṭipajjeyya.

Này Tỷ-kheo, Ta nói ví dụ để giải thích ý nghĩa, và đây là ý nghĩa.
Upamā kho myāyaṃ, bhikkhu, katā atthassa viññāpanāya. Ayañcettha attho:

‘Ngôi thành’, này Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với thân do bốn đại chủng tạo thành này, do cha mẹ sanh, do cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, tiêu mòn, tiêu hao, hủy hoại, hủy diệt.
‘nagaran’ti kho, bhikkhu, imassetaṃ cātumahābhūtikassa kāyassa adhivacanaṃ mātāpettikasambhavassa odanakummāsūpacayassa aniccucchādanaparimaddanabhedanaviddhaṃsanadhammassa.

‘Sáu cửa’, này Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với sáu nội xứ.
‘Cha dvārā’ti kho, bhikkhu, channetaṃ ajjhattikānaṃ āyatanānaṃ adhivacanaṃ.

‘Người giữ cửa’, này Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với niệm.
‘Dovāriko’ti kho, bhikkhu, satiyā etaṃ adhivacanaṃ.

‘Hai vị sứ giả cấp tốc’, này Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với chỉ và quán.
‘Sīghaṃ dūtayugan’ti kho, bhikkhu, samathavipassanānetaṃ adhivacanaṃ.

‘Người chủ ngôi thành’ là đồng nghĩa với thức.
‘Nagarassāmī’ti kho, bhikkhu, viññāṇassetaṃ adhivacanaṃ.

‘Ở giữa tại ngã tư đường’ là đồng nghĩa với bốn đại chủng: địa giới, thủy giới, hỏa giới và phong giới.
‘Majjhe siṅghāṭako’ti kho, bhikkhu, catunnetaṃ mahābhūtānaṃ adhivacanaṃ—pathavīdhātuyā, āpodhātuyā, tejodhātuyā, vāyodhātuyā.

‘Lời như thật ngữ’, này Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với Niết-bàn.
‘Yathābhūtaṃ vacanan’ti kho, bhikkhu, nibbānassetaṃ adhivacanaṃ.

‘Theo con đường họ đến’ là đồng nghĩa với con đường Thánh đạo Tám ngành. Như chánh tri kiến ... chánh định”.
‘Yathāgatamaggo’ti kho, bhikkhu, ariyassetaṃ aṭṭhaṅgikassa maggassa adhivacanaṃ, seyyathidaṃ—sammādiṭṭhiyā ...pe... sammāsamādhissā”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt